PVFCCo làm rõ các nghi vấn của cổ đông
Vừa qua, Tổng công ty CP Vật tư Nông nghiệp Nghệ An (Agrimex Nghệ An) cổ đông của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo, mã chứng khoán DPM) có văn bản dài nêu một số nghi vấn tại PVFCCo liên quan đến quản trị, điều hành công ty. Các cơ quan báo chí đã liên hệ với PVFCCo để làm rõ các nội dung này.
Toàn cảnh Nhà máy đạm Phú Mỹ năm 2018 |
Biến động giá khí và thuế VAT ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận
Từ năm 2014, giá khí cho sản xuất Đạm Phú Mỹ được căn cứ trên 46% giá dầu FO bình quân tháng tại thị trường Singapore và chi phí vận chuyển khí (tariff). Chi phí khí cho sản xuất Đạm Phú Mỹ năm 2014 là 3.001 tỷ đồng, năm 2015 là 1.848 tỷ đồng (giảm so với năm 2014 là 1.153 tỷ đồng), năm 2016 là 1.657 tỷ đồng (giảm so với năm 2015 là 191 tỷ đồng), năm 2017 là 2.082 tỷ đồng (tăng so với 2016 là 425 tỷ đồng).
Về giá bán, Đạm Phú Mỹ là mặt hàng phải kê khai giá theo quy định của Bộ Tài chính và theo công thức giá quy định, trong đó có căn cứ theo giá thị trường quốc tế và trong nước. Giá bán Đạm Phú Mỹ qua các năm: năm 2014 bình quân là 7.398.318 đồng/tấn, năm 2015 bình quân là 7.306.854 đồng/tấn (giảm so với năm 2014 là 91.465 đồng/tấn), năm 2016 bình quân là 6.040.021 đồng/tấn (giảm so với năm 2015 là 1.266.833 đồng/tấn), năm 2017 giá bán bình quân là 6.339.149 đồng/tấn (tăng so với năm 2016 là 229.128 đồng/tấn).
So sánh chi phí khí phải trả của năm 2016 thấp hơn năm 2015 là 191 tỷ đồng, tuy nhiên do giá bán năm 2016 giảm sâu, nên doanh thu Đạm Phú Mỹ năm 2016 bị giảm so với 2015 là 1.042 tỷ đồng. Năm 2017 giá khí phải trả cho sản xuất Đạm Phú Mỹ tăng 425 tỷ so với năm 2016, nhưng sản lượng thấp hơn 2016 (do Nhà máy dừng bảo dưỡng hơn 1 tháng) nên dù giá tăng nhưng doanh thu Đạm Phú Mỹ chỉ tăng 238 tỷ đồng.
Trên cả thị trường thế giới, trong nước và đặc biệt đối với PVFCCo, giá dầu, giá khí và giá phân bón không phải lúc nào cũng diễn biến cùng nhịp, thuận chiều với nhau, mà có độ trễ, hoặc thậm chí ngược chiều nhau. Giá khí do PVFCCo phải trả được căn cứ theo giá bình quân của tháng, tức là giá dầu tăng thì ngay lập tức, giá khí nguyên liệu để sản xuất đạm tăng theo, trong khi giá phân bón không tăng ngay theo giá dầu, giá khí mà tùy thuộc vào tình hình thị trường, mùa vụ…
Tại các của hàng bán lẻ phân bón ngoài các chi phí như bốc xếp, giao nhận, chi phí trong lưu thông, phân phối, các cửa hàng bán lẻ sẽ tính toán các chi phí tài chính và bán nợ, các rủi ro do nông dân mất mùa và các yếu tố khác có thể dẫn tới không thu nợ được, để tính giá bán lẻ tùy thời điểm có thể cao hơn giá bán (bán sỉ, thanh toán trước khi nhận hàng) của PVFCCo khoảng từ 500 – 1.000 đồng/kg tùy vào quy mô, doanh số bán hàng của từng địa phương (ví dụ các cửa hàng bán lẻ ở miền Bắc do quy mô doanh số thấp, nên họ sẽ phải bán cao hơn để bù đắp đủ các chi phí, còn khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên doanh số bán hàng lớn thì lợi nhuận gộp họ cộng vào thấp). Do đó, không thể lấy giá bán lẻ của các cửa hàng bán lẻ để tính doanh thu cho PVFCCo vì như vậy không hợp lý.
Đồng thời, từ năm 2015 do phân bón không được khấu trừ thuế VAT nên làm tăng chi phí của PVFCCo qua các năm, năm 2015 là 290 tỷ đồng, năm 2016 là 258 tỷ và năm 2017 là 371 tỷ đồng, cũng là lý do khiến lợi nhuận giảm.
Nỗ lực cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh
Trước đây Việt Nam chỉ có nhà máy Đạm Hà Bắc khoảng 160.000 tấn/năm và Đạm Phú Mỹ 800.000 tấn/năm, tuy nhiên từ năm 2013 trở lại đây Việt Nam có thêm hai nhà máy mới và Nhà máy Đạm Hà Bắc mở rộng, do đó cung đã vượt cầu (nhu cầu khoảng 2.000.000 tấn và năng lực sản xuất khoảng 2.600.000 tấn). Bên cạnh đó Việt Nam đã gia nhập các hiệp định thương mại, nên thuế nhập khẩu urea bằng 0%, do đó urea của các nước như Indonesia, Malaysia về Việt Nam rất thuận tiện với chi phí cước tàu giao động khoảng 15 -20 usd/tấn và khoảng trong vòng 1 tuần là hàng về đến cảng Việt Nam.
Đứng trước tình hình đó, PVFCCo đã tập trung đầu tư cho công tác marketing để duy trì thương hiệu, thị phần của Đạm Phú Mỹ. Do đầu tư cho marketing một cách hợp lý và hiệu quả nên thương hiệu Đạm Phú Mỹ vẫn là thương hiệu số 1 tại Việt Nam, do đó giá bán của Đạm Phú Mỹ cao hơn các sản phẩm cùng loại. Mặt khác, PVFCCo cũng xây dựng bộ sản phẩm phân bón Phú Mỹ bao gồm: Kali Phú Mỹ, NPK Phú Mỹ, DAP Phú Mỹ, sản phẩm hóa chất và hàng năm các sản phẩm này đã chia sẻ chi phí quản lý chung cho sản phẩm Đạm Phú Mỹ và cũng góp phần tích cực vào doanh thu, lợi nhuận chung của PVFCCo. Cụ thể doanh thu và lợi nhuận trong hệ thống PVFCCo từ các sản phẩm phân bón và hóa chất khác ngoài Đạm Phú Mỹ từ năm 2014 - 2017: doanh thu lần lượt đạt: 3.312 tỷ đồng, 3.661 tỷ đồng, 2.955 tỷ đồng và 2.960 tỷ đồng và đem lại lợi nhuận lần lượt là: 274 tỷ đồng, 172 tỷ đồng, 409 tỷ đồng và 313 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, PVFCCo cũng tối ưu các loại chi phí sản xuất, chi phí quản lý, bán hàng theo hướng hiệu quả nhất và nhìn chung, dù sản lượng kinh doanh tăng, có thêm sản phẩm mới, nhưng tổng chi phí qua các năm của PVFCCo theo xu hướng giảm. Ngoài ra PVFCCo tích cực triển khai dự án mở rộng NH3 – NPK từ năm 2015. Từ quý I/2018, khi đi vào vận hành thì đã chuẩn bị thị trường từ trước nên cả sản phẩm NH3 và NPK Phú Mỹ do nhà máy sản xuất đều tiêu thụ rất tốt.
Tuân thủ điều kiện cổ phiếu ESOP
Điều kiện ESOP của cổ phiếu DPM là hạn chế giao dịch 12 tháng, một thời hạn rất phổ biến ở các công ty niêm yết khi phát hành ESOP ở Việt Nam, hơn nữa số cổ phiếu được mua của mỗi cán bộ và lãnh đạo PVFCCo không nhiều. Tổng số CP phát hành là 11,4 triệu cổ phần tương đương 3% vốn điều lệ. Chỉ có 1 đợt duy nhất trong 10 năm hoạt động. Trong đó, phần số cổ phiếu cho 15 người trong ban lãnh đạo Tổng công ty chỉ là 920.000, chiếm 8% tổng số ESOP, bình quân mỗi người khoảng 60.000 cổ phiếu.
Sau khi hết thời hạn hạn chế, một số cổ đông nội bộ khi bán cổ phiếu ESOP đã tuân thủ quy định, thông báo và báo cáo giao dịch đầy đủ, với lý do về đáp ứng nhu cầu tài chính hợp pháp và chính đáng của mỗi cá nhân.
Cổ phiếu dù là ESOP cũng là một khoản đầu tư và người mua cũng gánh chịu rủi ro về khoản đầu tư này. Giá mua cổ phiếu ESOP DPM là 10.000 đồng và giá thị trường tại thời điểm hết thời hạn hạn chế giao dịch khoảng 22.000 đồng/cổ phiếu.
So sánh với ESOP của các doanh nghiệp khác thì mức ưu đãi giá và thời gian hạn chế giao dịch 12 tháng của chương trình ESOP của DPM là phù hợp, và thấp hơn so với hầu hết các doanh nghiệp khác.
Mặt khác, trong cùng thời gian, có người bán và cũng có người mua thêm, trong đó lượng mua thêm là 94.000 cổ phiếu DPM. Đồng thời, dù có bán cổ phiếu do điều kiện tài chính cá nhân, nhưng mọi thành viên này đều đang gắn bó, làm việc tại PVFCCo (trừ 1 thành viên nghỉ hưu theo chế độ).
Điều chỉnh kế hoạch năm căn cứ vào tình hình thực tế và tuân thủ quy định
Đại hội đồng cổ đông thông qua kế hoạch hàng năm cho Tổng công ty, không đưa ra định mức và quỹ thưởng cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành căn cứ theo lợi nhuận. Đối với cổ đông, HĐQT và Ban điều hành PVFCCo hoàn toàn không được ĐHĐCĐ áp dụng chế độ thưởng hoàn thành hay vượt mức kế hoạch.
Do HĐQT và BĐH PVFCCo phần lớn là người đại diện vốn nhà nước và đại diện của Tập đoàn PVN, nên tổng dự toán chi phí lương HĐQT, BĐH được Đại hội cổ đông thông qua hàng năm, khi chi trả thì phải tuân theo quy định của PVN trong đó phân chia ra phần tiền lương cố định và phần còn lại gọi là tiền thưởng. Do vậy trong báo cáo thường niên hàng năm PVFCCo nêu chi tiết thu nhập của HĐQT, BĐH gồm 2 khoản như trên.
Việc điều chỉnh KH của PVFCCo căn cứ vào tình hình thực tế, các điều kiện chủ quan, khách quan và yêu cầu quản trị sản xuất kinh doanh và thường được xem xét sau 6 tháng đầu năm và vào quý 3 hàng năm. Tuy nhiên việc xem xét điều chỉnh kế hoạch nếu có, phải qua quá trình báo cáo và chấp thuận rất chặt chẽ của cổ đông Nhà nước chi phối và còn phụ thuộc vào thời gian điều chỉnh giá dầu thô kế hoạch (vì kế hoạch của PVN và PVFCCo được lập dựa trên giá dầu), thường đến cuối quý 4 hàng năm mới được chấp thuận, do đó thời điểm HĐQT được phép ra quyết định điều chỉnh KH cũng bị muộn đến gần cuối năm.
P.V