.
.

Bàn về loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm

Thứ Tư, 11/07/2012|22:17

Một trong những vấn đề được người gửi tiền quan tâm hàng đầu trong chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm. Những thông tin này cần được công khai hóa và điều chỉnh linh hoạt tùy theo điều kiện kinh tế, tài chính, tiền tệ của từng quốc gia.

Hiện nay Luật BHTG đã được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2013. Theo đó, hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia BHTG khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm trong từng thời kỳ theo đề nghị của Ngân hàng  nhà nước.

Bài viết sau đây xin được có một số ý kiến về loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm.

Loại tiền gửi được bảo hiểm

Tiền gửi được bảo hiểm là các loại tiền gửi sẽ được chi trả cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Không phải tất cả các loại tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG đều được bảo hiểm. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm phụ thuộc vào chính sách tiền tệ, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng và tiến trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhằm phản ánh mục tiêu của chính sách BHTG, hầu hết các quốc gia đều quy định rõ lọai tiền gửi nào được bảo hiểm và loại tiền gửi nào không được bảo hiểm. Quy định này hết sức quan trọng và cần thiết vì nó liên quan trực tiếp đến việc tính phí BHTG và xác định người gửi tiền mà chính sách BHTG sẽ bảo vệ trực tiếp qua chi trả tiền bảo hiểm. 

Nhiều tài liệu được công bố cho thấy tiền gửi được bảo hiểm cần thống nhất với những quy định về tiền gửi được sử dụng trong Luật và các quy định của ngân hàng. Quy định rõ ràng, chính xác về tiền gửi được bảo hiểm sẽ tránh được sự không nhất quán và những xung đột tiềm tàng có thể xảy ra khi một tổ chức tham gia BHTG bị đóng cửa. Tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG đều có trách nhiệm phải thông tin tới công chúng, đặc biệt là người gửi tiền về loại tiền gửi nào được bảo hiểm và tiền gửi nào không được bảo hiểm. Người gửi tiền có quyền được biết để yêu cầu bảo vệ lợi ích khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm. Đồng thời, việc quy định rõ loại tiền gửi được bảo hiểm cũng nhằm kiểm soát tốt hơn rủi ro đạo đức có thể xảy ra trong hoạt động ngân hàng và BHTG.

Người gửi tiền được bảo hiểm và loại tiền gửi được bảo hiểm có quan hệ mật thiết với nhau. Khi mở rộng phạm vi đối tượng người gửi tiền được bảo hiểm sẽ làm tăng số lượng tiền gửi được bảo hiểm và ngược lại, khi mở rộng bảo hiểm đối với các loại tiền gửi, cũng làm tăng số lượng người gửi tiền được bảo hiểm.

Ở nước ta, tiền gửi được bảo hiểm được quy định cụ thể trong Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005. Theo đó, tiền gửi được bảo hiểm là “tiền gửi bằng đồng Việt nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG”[3]. Theo Luật BHTG Việt Nam đã được Quốc hội thông qua, tiền gửi được bảo hiểm là “tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng”[2].

Thông thường, các hệ thống BHTG đều bảo hiểm cho đồng nội tệ, một số quốc gia bảo hiểm cho cả ngoại tệ. Tuy nhiên việc có bảo hiểm cho tiền gửi ngoại tệ hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví dụ chính sách ngoại hối quốc gia….

Hạn mức chi trả

Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm cũng là một vấn đề cốt lõi của hoạt động BHTG. Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng nhìn chung phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: Thu nhập quốc nội (GDP) bình quân đầu người; quy mô tỷ lệ quỹ BHTG…

Chi trả tiền bảo hiểm xảy ra khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và bị mất khả năng thanh toán. Chi trả BHTG là việc thực hiện cam kết thanh toán khoản tiền gửi được bảo hiểm, bao gồm tiền gốc và tiền lãi theo một mức độ nhất định của tổ chức BHTG cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, tuỳ thuộc vào quy định về hạn mức chi trả của mỗi hệ thống BHTG.

Chi trả BHTG là cách thức cuối cùng áp dụng, khi mà mọi biện pháp nhằm khôi phục cho tổ chức tham gia BHTG hoạt động bình thường không còn tác dụng. Chi trả tiền bảo hiểm là sự khẳng định dễ nhận biết nhất về quyền lợi của người gửi tiền được đảm bảo. Việc chi trả kịp thời, thuận tiện cho người gửi tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự an tâm của dân chúng với các ngân hàng khác chưa bị đổ vỡ và có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng hệ thống bất thường.

Giải pháp chi trả bảo hiểm được thực hiện trong một thời gian, và quy mô ngân hàng nhất định. Theo thông lệ từ ngày ngân hàng bị đóng cửa đến khi chi trả bảo hiểm không quá 6 tháng, và thường được áp dụng với ngân hàng quy mô nhỏ.

Chi trả BHTG tăng niềm tin của công chúng với hệ thống ngân hàng, dập tắt sự khủng hoảng cục bộ tại ngân hàng đổ vỡ, không để lây lan ra hệ thống. Hạn mức chi trả được xác định phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của từng quốc gia, có tính đến GDP bình quân đầu người, yếu tố lạm phát, tuân thủ kỷ cương thị trường….Tuy nhiên, nguyên tắc chung được thừa nhận là hạn mức chi trả không quá thấp để khuyến khích người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào ngân hàng và không quá cao để kiểm soát rủi ro đạo đức.

Hạn mức chi trả được điều chỉnh linh hoạt theo tình hình ổn định kinh tế - xã hội. Ở một số nước, trong bối cảnh suy thoái kinh tế hay kinh tế bất ổn, khi có dấu hiệu rút tiền ồ ạt, một trong những nguyên nhân gây đổ vỡ ngân hàng, các hệ thống BHTG tăng hạn mức chi trả tiền bảo hiểm. Ví dụ để đối phó với khủng hoảng tài chính xuất hiện từ năm 2008 đến nay, BHTG Liên bang Mỹ ban đầu tăng mức chi trả từ 100.000 USD lên đến 250.000 USD đến hết 31/12/2013, sau đó cam kết mức chi trả 250.000 USD được duy trì lâu dài, cho đến khi có quy định mới [7]; tổ chức BHTG Trung ương Đài Loan đã tăng hạn mức chi trả từ 1,5 triệu Đài tệ lên gấp đôi là 3 triệu Đài tệ khi có dấu hiệu khủng hoảng, và một thời gian ngắn sau đó công bố chính sách bảo đảm toàn bộ đến hết 31/12/2010 nhằm trấn an dân chúng. Hạn mức chi trả của BHTG Đài Loan hiện nay là 3 triệu Đài tệ [8].

Tại khu vực châu Âu, trong năm 2008, 25 trên tổng số 27 quốc gia thuộc cộng đồng châu Âu đã điều chỉnh tăng hạn mức chi trả hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Hầu hết các quốc gia trong khu vực Ðông - Nam Á, là thành viên Ủy ban khu vực châu Á thuộc Hiệp hội BHTG quốc tế đã tăng hạn mức chi trả BHTG, tại Hồng Kông (Trung Quốc) đã chuyển sang chi trả không giới hạn.

Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay là 50 triệu VNĐ. Hạn mức này được điều chỉnh từ năm 2006 từ mức 30 triệu khi thành lập hệ thống BHTG tại Việt Nam năm 2000. Hạn mức này được đánh giá là phù hợp với thông lệ quốc tế vào thời điểm xây dựng, tức là tương đương gấp 5,5 lần GDP bình quân đầu người năm 2005 và bảo vệ được toàn bộ tài khoản của khoảng 80% số người gửi tiền nếu ngân hàng bị phá sản, giải thể, trong khi hạn mức chi trả trên thế giới vào khoảng 3-12 lần GDP bình quân.

Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá tiêu dùng trong 7 năm vừa qua, hạn mức này đã trở nên không phù hợp, không có ý nghĩa do không bảo vệ được đa số người gửi tiền tiết kiệm. Khi xảy ra hiện tượng mất khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng, người gửi tiền chỉ được chi trả tối đa 50 triệu đồng là con số quá ít so với thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay – khoảng 1.200 USD, tương đương 25 triệu đồng.

Việt Nam đã có Luật BHTG, theo đó hạn mức chi trả do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, con số này khi xây dựng phải tính đến các yếu tố như thu nhập bình quân đầu người; tỷ lệ người gửi tiền được bảo vệ…  

Biểu đồ: Cơ cấu tiền gửi ở Việt Nam theo số tiền

Biểu đồ trên cho thấy số lượng tiền gửi ở mức dưới 50 triệu chỉ chiếm 19% tổng số tiền gửi bảo hiểm, và trên 81% tổng lượng tiền gửi sẽ không được chi trả đủ 100% số tiền gốc và lãi khi ngân hàng bị phá sản, ngừng hoạt động.

Với đề xuất áp dụng hạn mức chi trả BHTG gấp 5,5 lần thu nhập quốc nội bình quân, hạn mức chi trả sẽ ở mức:

                        21.000 đồng x 1.200 USD x 5,5 lần = 138.600.000 đồng

(21.000 đồng là tỷ giá tương đối USD/VND tại thời điểm cuối tháng 6/2012).

Ở Việt Nam, tỷ giá ngoại tệ có xu hướng tăng. Chúng ta cũng đang phấn đấu tăng thu nhập quốc nội bình quân đầu người. Với tính chất dự báo của chính sách, hạn mức chi trả của BHTGVN được coi là phù hợp nếu tăng lên ở mức 200 triệu đồng. Khi nâng mức chi trả BHTG lên tiếp cận với số tiền được gửi sẽ có ý nghĩa tạo niềm tin ở người gửi tiền.

BHTG là một chính sách để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, mà bảo vệ lớn nhất cho người gửi tiền đó là an toàn hệ thống. Chính vì vậy, nghiên cứu loại tiền gửi được bảo hiểm và nâng cao hạn mức chi trả cho người gửi tiền là để củng cố và duy trì niềm tin của dân chúng, người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì và ổn định hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.

 Th.s Lê Việt Nga

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Thị Kim Oanh, 2004, Bảo hiểm tiền gửi - nguyên lí, thực tiễn và định hướng, NXB Lao động.

 [2] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi.

[3] Thủ tướng Chính phủ, 1999, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về BHTG.

[4] Vũ Minh Trà, 11/11/2011, Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới và Việt Nam, http://pgbankresearch.wordpress.com

[5] Cull, Robert & Senbet, Lemma W & Sorge, Marco, 2005, Deposit Insurance and Financial Development, tr. 24.

[6] www.div.gov.vn

[7] www.fdic.gov

[8] www.cdic.gov.tw 

.
.
.
.