.
.

Tập đoàn Sông Đà – 50 năm xây dựng và phát triển

Thứ Tư, 25/05/2011|10:34

Tập đoàn Sông Đà – 50 năm xây dựng và phát triển; những người thợ Sông Đà trải qua 50 năm đã, đang, và sẽ viết nên những bản anh hùng ca bất diệt, sống mãi cùng non sông đất nước, đi mãi với thời gian, góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, đặc biệt trong dựng xây “đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã dạy.

Mỗi khi hai tiếng “Sông Đà” vang lên không chỉ đơn thuần nhắc đến tên của một dòng sông mà đã một thời kỳ dài được ví như dòng sông đen hung dữ, tàn phá bao làng mạc ruộng đồng dọc hai bên bờ từ thượng nguồn đến hạ du mỗi khi mùa lũ về, dường như để khẳng định sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên; cũng nhắc ta về công trường thanh niên cộng sản, công trường thủy điện Hoà Bình - nơi hội tụ nhiều tấm gương lao động không mệt mỏi, lao động sáng tạo, quên mình của những người con của Liên Bang Xô Viết vĩ đại vì tình hữu nghị cao cả sang giúp đỡ nhân dân Việt Nam, sống và làm việc theo tinh thần của những khẩu hiệu nhưng chính là mệnh lệnh từ trái tim: “cao độ 81 hay là chết, hỡi Sông Đà, ta chinh phục người, vinh quang thay những người xây dựng thủy điện…”…;nơi chàng Sơn Tinh “Tổng công ty xây dựng thủy điện Sông Đà, nay là Tập đoàn Sông Đà” đã chinh phục Thủy tinh, bắt dòng nước hung dữ thành năng lượng thủy điện và đưa dòng nước đỏ tưới tiêu cho đồng bằng châu thổ sông Hồng, góp phần tạo nên những mùa vàng bội thu, những vườn cây đầy hoa trái...

 

         sda2_50.jpg 

Chặng đường 50 năm qua, từ khi thành lập đến nay, Tập đoàn Sông Đà đã kinh qua nhiều giai đoạn phát triển, với 5 lần đổi tên: tiền thân là Ban chỉ huy Công trường thuỷ điện Thác Bà, được thành lập ngày 01/6/1961; sau đổi thành Công ty Xây dựng thủy điện Thác Bà; từ năm 1975 - 1994, khi tham gia xây dựng công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình, cái tên mới “Tổng Công ty Xây dựng thủy điện Sông Đà” được hình thành. Ngày 15/11/1995, theo Quyết định số 966/BXD-TCLĐ của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tổng Công ty Xây dựng thủy điện Sông Đà được thành lập lại theo mô hình Tổng công ty 90 với tên gọi là Tổng công ty Xây dựng Sông Đà. Ngày 11/3/2002, theo Quyết định số 285/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà tiếp tục được đổi tên thành Tổng công ty Sông Đà và ngày 12/01/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 52/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thí điểm thành lập Tập Đoàn Công Nghiệp Xây Dựng Việt Nam do Tổng công ty Sông Đà làm nòng cốt, với sự tham gia của các Tổng công ty: LILAMA, DIC, LICOGI, COMA, Sông Hồng; Quyết định số 53 /QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Sông Đà.

Giai đoạn từ khi thành lập (1961) đến năm 1975:  Đây là giai đoạn Miền Bắc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, chi viện sức người sức của cho Miền Nam. Để xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội thì điện phải đi trước một bước như V.I. Lê Nin đã chỉ ra: “CNXH là Chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”.

Thủy điện Thác Bà công suất 110MW là công trình thủy điện lớn nhất miền Bắc thời kỳ đó; là một trong những công trình điện mở đầu cho công cuộc phát triển điện khí hóa của đất nước; là công trình thuỷ điện đầu tiên, cánh chim đầu đàn của ngành thuỷ điện Việt Nam. Để triển khai thi công xây dựng công trình, ngày 01/6/1961, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 214 TTg về việc thành lập Ban chỉ huy công trường thủy điện Thác Bà, sau được đổi thành Công ty Xây dựng thuỷ điện Thác Bà. Đây là Quyết định đã trở thành lịch sử khai sinh ra ngành xây dựng thủy điện Việt Nam; và cũng từ đây, lịch sử phát triển của Sông Đà gắn liền với những công trình xây dựng thủy điện của đất nước.

Công tác chuẩn bị công trường bắt đầu từ năm 1961 và chính thức khởi công công trình vào năm 1963. Sau 3 năm rưỡi thi công, công trình đã phải tạm ngừng vào giữa năm 1966, vì đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá Miền Bắc và chuyển sang tư thế vừa xây dựng, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ công trình. Khi đế quốc Mỹ tạm ngừng ném bom Miền Bắc, công trường được khôi phục trở lại từ tháng 8/1968 và đến 22/2/1970, đã tiến hành ngăn sông. Sau 8 năm xây dựng (không kể 2 năm tạm ngừng thi công) dưới sự giúp đỡ về kỹ thuật của các chuyên gia Liên Xô, Tổ máy I đã khởi động vào đúng dịp lễ Quốc khánh, ngày 2/9/1971 và Tổ máy 3 khởi động vào ngày sinh nhật Bác 19/5/1972.

Trong giai đoạn này, Công ty Xây dựng thuỷ điện Thác Bà đã hình thành nên lực lượng xây dựng chuyên ngành: Công trường 1 chuyên thi công đập đá (đập chính), Công trường 2 chuyên thi công đập đất (các đập phụ), Công trường bê tông, Công trường thủy công chuyên ngành (xử lý nền móng), Xí nghiệp cơ giới, Xí nghiệp cơ điện,... với lực lực lượng CBCNV ban đầu khoảng vài trăm người, sau đó tăng lên khoảng 2 ngàn người, cùng với lực lượng xe máy, thiết bị thi công do Liên Xô giúp đỡ. Thuỷ điện Thác Bà mãi mãi xứng đáng được lưu danh như một biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí kiên cường, tinh thần quả cảm của những người thợ xây dựng thủy điện đầu tiên ở Việt Nam. Việc hoàn thành thi công xây dựng công trình thủy điện Thác Bà cũng là hoàn thành khóa học đầu tiên của một thế hệ cán bộ quản lý và những người thợ về xây dựng thủy điện cho tương lai.

 

        sda3_50.jpg

Khi công trình thuỷ điện Thác Bà chuẩn bị hoàn thành, lực lượng những người xây dựng thủy điện lại tiếp tục tham gia thi công xây dựng Nhà máy Giấy Bãi Bằng, Nhà máy Dệt Minh Phương, Nhà máy Hóa chất Việt Trì, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và làm công tác chuẩn bị cho xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình. Mặc dù liên tục bị phân tán, tổn thất cả nhân lực và trí lực bởi chiến tranh, nhưng Công ty xây dựng thủy điện Thác Bà vẫn kiên trì xây dựng và bảo toàn đội ngũ cán bộ, chuyên gia, thợ lành nghề dày dạn kinh nghiệm chuẩn bị cho những công trình mới.

Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1995: Năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

Công ty xây dựng thủy điện Thác Bà được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho nhiệm vụ rất nặng nề nhưng vô cùng vinh quang, đó là: Chinh phục Sông Đà, xây dựng nhà máy thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á (thời kỳ đó) - thuỷ điện Hoà Bình, công suất 1.920MW với 8 tổ máy. Chính trong thời gian này, tên của dòng sông Đà đã trở thành tên gọi mới của Công ty: Công ty xây dựng thủy điện Sông Đà và năm 1979 được nâng lên thành Tổng công ty xây dựng thủy điện Sông Đà- một trang sử mới của Tổng công ty được mở ra ngay trên vùng đất từng được coi là "ma thiêng, nước độc" này.

Ngày 2/9/1975, khởi công mở đường Hòa Bình - con đường đầu tiên phục vụ thi công công trình; ngày 6/11/1979, công trình thủy điện Hòa Bình đã chính thức được khởi công với sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất và kỹ thuật, cùng đội ngũ chuyên gia của Liên Xô. Sau hơn ba năm thi công xây dựng, ngày 12/01/1983, tiến hành ngăn sông đợt 1; tháng 12/1986, ngăn sông đợt 2; ngày 30/12/1988, phát điện tổ máy số 1 và ngày 4/4/1994, phát điện tổ máy số 8 - tổ máy cuối cùng đi vào vận hành. Đây có thể coi là thời điểm kết thúc việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình, kinh qua 15 năm kể từ ngày nổ mìn khởi công công trình với biết bao nhiêu sự kiện và kỷ niệm không thể nào quên đối với những người thợ xây dựng thủy điện. Tại công trình thế kỷ này, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định công trường được mang tên “Công trường Thanh niên Cộng sản”, với tinh thần: “Sông Đà vì cả nước, cả nước chi viện cho Sông Đà”. Hàng vạn CBCNV, đặc biệt là những kỹ sư, những người thợ trẻ trên khắp mọi miền của đất nước về đây, đã không quản ngày đêm, gian khổ, thời tiết khắc nghiệt, bất chấp mọi hiểm nguy để làm việc với tinh thần "Tất cả vì dòng điện ngày mai cho Tổ quốc". Đây thực sự là thời kỳ mà mỗi khoảnh khắc sống đều đầy ắp tính sự kiện và giá trị đạo đức, nhân văn sâu sắc về tinh thần quốc tế cao cả, ý thức trách nhiệm với nhiệm vụ và với nỗi niềm tình cảm của mỗi con người dù Việt hay Liên Xô cũ; về đức hy sinh, ý thức vươn lên làm chủ khoa học công nghệ hiện đại của đội ngũ cán bộ kỹ thuật Việt Nam; về long tri ân đối với những đồng bào đồng chí đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình dựng xây hôm nay...

Không thể kể hết những khó khăn chồng chất cũng như những trở ngại khôn lường mà tập thể CBCNV Tổng công ty XDTĐ Sông Đà đã phải vượt qua để biến giấc mơ từ ngàn đời của cha ông ta thành hiện thực: “Chinh phục dòng sông Đà”. Bằng tinh thần vượt khó, ham học hỏi cùng với phẩm chất thông minh của người Việt Nam, đã có hàng ngàn sáng kiến được đưa vào ứng dụng, làm lợi cho Nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng - Đại hội của đổi mới, đánh dấu sự thay đổi lớn lao của đất nước khi chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những ngày đầu của thời kỳ đổi mới với biết bao khó khăn bỡ ngỡ và càng khó khăn gấp bội khi công trình thủy điện Hòa Bình lại bước vào giai đoạn cuối, khối lượng công việc giảm dần, hàng vạn cán bộ và người thợ phải đối mặt trước nguy cơ thiếu việc làm và đã có hơn 7.600 người phải thôi việc, nghỉ theo chế độ 176. Đây có thể coi là thời kỳ khó khăn, tổn thất về lực lượng của Tổng công ty XD TĐ Sông Đà, được gọi là thời kỳ “Hậu Sông Đà”. Đứng trược khó khăn, một lần nữa bản lĩnh, ý trí của người thợ Sông Đà lại được thử thách, khơi dậy. Và để giữ chân họ, nhằm bảo toàn lực lượng thợ xây dựng thủy điện, Tổng công ty đã thực hiện nhiều phương án phát triển SXKD theo hướng đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, nhưng vẫn giữ thế mạnh chủ lực là xây dựng các công trình thủy điện. Đó là mở ra các ngành nghề như may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất bao bì, dịch vụ vận tải, xây dựng dân dụng, kể cả tổ chức tăng gia chăn nuôi...Đó là tích cực tìm kiếm việc làm như: di chuyển một bộ phận để tham gia thi công thủy điện Sêlabam tại Lào và trường Đảng (sau đổi tên thành Viện xã hội học) tại Campuchia; di chuyển một lực lượng khác đến khu vực miền Trung và Tây Nguyên để thi công xây dựng các công trình thủy điện Vĩnh Sơn (66MW) và Sông Hinh (70MW). Đặc biệt, Tổng công ty đã đầu tư 2 dự án xi măng tại Hòa Bình (năm 1992) và Gia Lai (năm 1994) với công suất mỗi nhà máy là 84.000 tấn/năm, mở ra bước ngoặt về chuyển đổi đa dạng hóa ngành nghề của TCTy, góp phần tạo ra hàng ngàn việc làm cho lực lượng lao động tạm thời dôi dư của Tổng công ty.

Năm tháng rồi sẽ trôi đi, trong đời sống bộn bề lo toan, hối hả với biết bao công việc, có thể mỗi người chúng ta rồi sẽ góp phần xây dựng nhiều dự án có quy mô, mức độ phức tạp, tiến độ hơn hẳn dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, nhưng công trình thuỷ điện Hoà Bình mãi mãi là tượng đài của tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh, sự hội tụ giữa trí và lực; là kết tinh của khát vọng, trí thông minh, lòng dũng cảm, truyền thống ham học hỏi, sự cầu thị, được nuôi dưỡng từ cội nguồn văn hoá Việt Nam và thấm đẫm tình hữu nghị quốc tế cao cả Việt Xô.

Với những nỗ lực không mệt mỏi, Tổng công ty đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó; đồng thời củng cố, xây dựng lực lượng để bước vào một thời kỳ mới, được đánh dấu bằng việc Tổng công ty tiếp tục được Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ làm Tổng thầu xây dựng nhà máy thủy điện Yaly (720MW) ở vùng đất Tây Nguyên - là công trình thủy điện lớn thứ 2 của đất nước thời kỳ đó. Ngày 4/11/1993, thủy điện Yaly chính thức khởi công; chỉ sau 2 năm xây dựng, ngày 12/12/1995, đã tiến hành ngăn sông; ngày 23/6/2000, phát điện Tổ máy I và ngày 28/5/2001, phát điện Tổ máy III.

Thủy điện Yaly không chỉ là vùng đất mới của người thợ Sông Đà mà còn là nơi ghi nhận sự trưởng thành vượt bậc của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân kỹ thuật của Tổng công ty; tạo nên một tầm vóc mới cho Tổng công ty xây dựng Sông Đà, một tinh thần mới mà người thợ Sông Đà có quyền tự hào. Vì, Công trình thủy điện Yaly không chỉ có địa hình, địa chất phức tạp, thời tiết biến động thất thường mà còn ngổn ngang bởi tàn tích của chiến tranh; những người thợ Sông Đà phải đối mặt với sốt rét, bom mìn, chất độc hoá học và một hạ tầng cơ sở vô cùng nghèo nàn, lạc hậu. Một lần nữa những người thợ Sông Đà cho thấy bản lĩnh kiên cường và truyền thống đoàn kết vượt qua mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Vì, nếu như ở thủy điện Thác Bà và Hòa Bình, Tổng công ty giống như những người thợ tập sự, từ việc nhỏ đến lớn phải chờ sự hướng dẫn của chuyên gia nước ngoài, thì tại thủy điện Yaly, những người thợ Sông Đà tự làm nên tất cả. Điều đó đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng ngành xây dựng thuỷ điện Việt Nam đã thực sự trưởng thành. Chính tại thủy điện này, Tổng công ty đã mạnh dạn đầu tư hàng loạt xe máy, thiết bị hiện đại, đồng bộ của các nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Thụy Điển, Phần Lan, Nhật Bản,.. thay thế các thiết bị cũ lạc hậu; do đó, năng suất lao động tăng lên gấp nhiều lần so với các công trình thủy điện trước đây (đào hầm gấp 5 lần, đổ bê tông gấp 2 lần và đào đất đá gấp 3 lần so với thời kỳ thi công thủy điện Hòa Bình, Thác Bà).

Thủy điện Yaly là một thành công lớn của Tổng công ty XD Sông Đà, bởi tự mình đảm nhận tổ chức thi công một công trình thủy điện lớn mà không có sự trợ giúp, hướng dẫn của chuyên gia nước ngoài. Song song, với việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình và Yaly, Tổng công ty còn tham gia thi công xây dựng nhà máy thủy điện Trị An (400 MW), Hàm Thuận - Đa My (475 MW); đường dây 500KV Bắc - Nam và các trạm biến áp 500KV Hòa Bình, Pleiku, góp phần đưa các công trình trên vào vận hành đúng tiến độ, làm gia tăng sản lượng điện, cũng như kịp thời điều tiết điện năng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2010: Đây là giai đoạn đất nước tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng hơn. Cùng với sự phát triển của đất nước, Tổng công ty đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, hoạt động SXKD đa ngành nghề, với địa bàn trải rộng khắp đất nước và mở rộng ra nước ngoài.

Năm 1995, Tổng công ty xây dựng Sông Đà chuyển sang tổ chức và hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước theo Quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ và tháng 12-2005, Tổng công ty được Bộ Xây dựng quyết định chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Điều đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi để Tổng công ty phát huy tính chủ động, sáng tạo, tập trung nguồn lực phát triển, xây dựng được mối quan hệ gắn kết giữa các đơn vị thành viên dưới sự quản lý chỉ đạo thống nhất của Tổng công ty để tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Sau khi hoàn thành thi công xây dựng nhà máy thủy điện Yaly năm 2001, lực lượng xây dựng thủy điện của Tổng công ty đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, với 18 đơn vị chuyên ngành (xây dựng thủy điện, cơ giới, công trình ngầm, bê tông thủy công, đường dây và trạm biến áp, vật tư vận tải, điện nước, tư vấn xây dựng,...); với lực lượng lao động bình quân trên 20 ngàn người, đội ngũ cán bộ quản lý giầu kinh nghiệm và lực lượng xe máy thi công hùng hậu, hiện đại. Do đó, Tổng công ty tiếp tục được Đảng, Chính phủ giao cho làm Tổng thầu EPC các công trình thủy điện: Sê San 3 (273MW), Tuyên Quang (342MW) và Tổng thầu xây lắp hầu hết dự án thủy điện lớn như: Huội Quảng (520MW), Bản Vẽ (320MW), Sê San 4 (360MW), Plêikrông (100MW), Sơn La (2.400MW), Lai Châu (1.200MW),.. Tại các công trình này, Tổng công ty luôn thể hiện rõ vai trò chủ đạo, năng động, sáng tạo, thi công đảm bảo mục tiêu, tiến độ, chất lượng xây lắp công trình. Đặc biệt, tại công trình Thuỷ điện Sơn La - thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, Tổng công ty đã hoàn thành mục tiêu tiến độ công trình để phát điện Tổ máy I vào tháng 12/2010, sớm hơn 02 năm so với tiến độ do Quốc hội phê duyệt; thực sự là một kỳ tích to lớn của những người thợ Sông Đà.

 

     sda4_50.jpg

Nối tiếp những thành công của thủy điện Yaly, tại thủy điện Sơn La, những người thợ Sông Đà lại khắc thêm dấu ấn của mình bằng việc đã và đang khẳng định trình độ quản lý, tổ chức điều hành các dự án thủy điện có quy mô lớn ngang tầm khu vực và quốc tế.

Ngoài thi công xây lắp các công trình thủy điện, Tổng công ty còn mở rộng và phát triển sang lĩnh vực thi công xây dựng các công trình công nghiệp (Xi măng Bút Sơn, Nghi Sơn,.. Nhà máy đường Sơn La, Hòa Bình, Vị Thanh,...), giao thông (Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, Đường HCM, QL1A,..),...Tại công trình Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, công trình hiện đại vào bậc nhất thế giới và có độ dài vào bậc nhất Đông Nam Á, cực kỳ phức tạp về mặt kỹ thuật và xử lý địa chất khiến nhiều chuyên gia, nhà thầu nước ngoài từng bỏ cuộc trước những sự cố địa chất ít gặp ngay cả trong thi công hầm trên thế giới. Nhưng chính tại công trình này, những người thợ Sông Đà tiếp tục khẳng định phẩm chất đặc biệt của mình với tinh thần sáng tạo và bản lĩnh kiên cường, không khuất phục trước khó khăn đã trở thành truyền thống, nhanh chóng tìm ra phương án khắc phục sự cố, đưa ra phương án thi công tối ưu và đã thi công đào thông hầm phía Nam (gói 1B) vượt tiến độ 4 tháng; đã thi công giúp nhà thầu (gói 1A) 500m dài hầm phía Bắc để đảm bảo tiến độ chung của dự án. Thành công của người thợ Sông Đà trên công trình Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân đã được Chủ đầu tư và các chuyên gia tư vấn nước ngoài thán phục và đánh giá rất cao. Cũng tại công trình này, một lần nữa đã minh chứng thêm sức mạnh của đội ngũ thợ Sông Đà trong thời đại mới, càng thêm tự hào về những người thợ Sông Đà và những thành tựu mà Tổng công ty đã đạt được.

Từ đơn vị chuyên về thi công xây lắp, Tổng công ty đã tích lũy kinh nghiệm, làm chủ công nghệ, để vươn lên làm Chủ đầu tư và tự thực hiện (từ công tác tư vấn, đến thi công xây lắp) nhiều dự án trong các lĩnh vực, nhằm mở rộng quy mô SXKD của TCT. Đó là trong lĩnh vực Thủy điện, đã nghiên cứu, thực hiện đầu tư dự án thủy điện Cần Đơn (76MW)- dự án thủy điện đầu tiên trong nước được thực hiện theo hình thức BOT; tiếp tục nghiên cứu và thực hiện đầu tư nhiều dự án thủy điện với như: Ry Ninh 2, Nà Lơi, Thác Trắng, Sê San 3A (98MW), Nậm Mu, Nậm Chiến (210MW),... Đặc biệt, Tổng công ty còn là doanh nghiệp đầu tiên được Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào giao cho nghiên cứu và thực hiện đầu tư 7 dự án thủy điện tại Lào (Sêkaman 3, Xêkaman 1, Sê Kông 3,..), với tổng công suất khoảng 1.400MW, để nhập khẩu điện về Việt Nam. Đến năm 2010, TCT đã có 13 dự án đi vào vận hành, với tổng công suất 404 MW, điện lượng bình quân hàng năm 1,74 tỷ KWh, góp phần bù đắp vào sự thiếu hụt điện năng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đã và đang đảm nhận tổng thầu xây lắp, tổng thầu EPC 23 công trình thủy điện lớn với tổng công suất lắp máy khoảng 10.000,MW, điện lượng trung bình hàng năm khoảng trên 40 tỷ KWh; tham gia thi công 10 công trình thủy điện khác,với tổng công suất lắp máy khoảng trên 2.300MW, điện lượng trung bình hàng năm khoảng trên 9,4 tỷ KWh. Bên cạnh đó, Tổng công ty còn thi công các công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhà cao tầng,... lớn của đất nước, luôn đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình. Trong lĩnh vực sản xuất VLXD, đã hoàn thành đầu tư nhà máy thép Việt Ý (công suất 200.000 tấn/năm); Nhà máy phôi thép Sông Đà (400.000 tấn/năm); Xi măng Hạ Long (CS 2,1 triệu tấn/năm), nâng tổng số nhà máy xi măng lên 3 nhà máy, với tổng công suất 2,5 triệu tấn/năm và một số các nhà máy gạch xây dựng...Thực hiện chủ trương chuyển dịch mạnh cơ cấu sang sản xuất công nghiệp, nhằm giảm tỷ trọng xây lắp trong tổng giá trị SXKD, đến năm 2010 tỷ trọng giá trị SXCN chiếm 32% trong Tổng giá trị SXKD, tăng 25% so với năm 2001 (7%) với các sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú, đa dạng như: Điện thương phẩm, sắt thép XD, xi măng, vỏ bao, may mặc, phôi thép,.. đã và đang góp phần ổn định SXKD của Tổng công ty, đã khẳng định được thương hiệu và dần chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như khu vực. Trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, hoàn thành đầu tư 3 dự án theo hình thức BOT: Hầm đường bộ qua đèo Ngang, Đường QL2 đoạn Hà Nội - Vĩnh Phúc, Đường QL 1A đoạn tránh thành phố Hà Tĩnh; đang triển khai đầu tư dự án QL6 đoạn Hà Nội - Xuân Mai, QL3 đoạn Hà Nội - Thái Nguyên theo hình thức BOT kết hợp BT. Trong lĩnh vực phát triển nhà và đô thị, thành công đầu tiên của TCT là thực hiện dự án Mỹ Đình - Mễ Trì; đã và đang nghiên cứu và thực hiện đầu tư nhiều dự án có hiệu quả tại các thành phố lớn trong nước (Hà Nội, TP HCM, Nha Trang, Đà Nẵng,....). Đã xây dựng và khẳng định được thương hiệu Sông Đà trong lĩnh vực hạ tầng đô thị, mang lại hiệu quả lớn cho Tổng công ty; là điều kiện để Tổng công ty tiếp tục phát triển và mở rộng các dự án trong lĩnh vực này, nhằm nâng cao tiềm lực tài chính. Trong lĩnh vực tư vấn xây dựng, Tổng công ty đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, kỹ sư có kinh nghiệm đảm nhận được công tác khảo sát, lập các dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tư vấn giám sát các công trình thuỷ điện lớn có công suất trên 300MW. Luôn luôn coi trọng công tác đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân kỹ thuật các nghề và đào tạo cán bộ quản lý có trình độ Quốc tế. Nhiều cán bộ trẻ trong diện quy hoạch đã và đang được cử đi học chương trình Thạc sỹ quản trị kinh doanh ở trong và ngoài nước, đáp ứng được nhu cầu phát triển và hội nhập của Tập đoàn.  Trong công nghệ thi công: Tổng công ty đã đầu tư một số lượng lớn máy móc, thiết bị có công nghệ hiện đại, đồng bộ của các nước phát triển (Nhật, Mỹ, Đức, Thụy Điển,...) đặc biệt là các công nghệ mới mà lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam để phục vụ thi công các công trình. Do đó, đã nâng cao năng lực thi công hàng năm lên gấp 6 đến 8 lần so với những năm thi công tại công trình TĐ Hoà Bình (về công tác đào đất đá các loại: từ 15 triệu m3 lên 50 triệu m3/năm; Đào đá hầm từ 1 triệu m3 lên trên: 10 triệu m3/năm, trong đó: tốc độ thi công 1 gương hầm từ 30-40 md lên 120-150 md/tháng; Đổ bê tông các loại: từ 1 triệu lên 4 triệu m3/năm). Trong công tác đầu tư, Tổng công ty đã và đang đầu tư hàng trăm dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh chính của mình ở trong và ngoài nước như: 45 dự án điện, với tổng công suất lắp máy khoảng trên 2.500 MW, điện lượng trung bình hàng năm khoảng trên 10 tỷ KWH; đầu tư các dự án xi măng, thép, gạch, hàng chục dự án nhà ở, khu đô thị và nhiều dự án khác. Tổng công ty luôn chú trọng đến công tác đầu tư máy móc, thiết bị có công nghệ hiện đại, đồng bộ của các nước phát triển (Nhật, Mỹ, Đức, Thụy Điển,...). Đặc biệt, là các công nghệ mới nhất, lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam như: dây chuyền thi công bê tông dự lạnh cho đập TĐ Sê San 3; bê tông đầm lăn (RCC) cho đập thủy điện: Sơn La, Bản Vẽ, Sê San 4, Plei Krông; thiết bị thi công hầm theo công nghệ NATM của Áo cho hầm Hải Vân; bê tông đập vòm cho thủy điện Nậm Chiến,... với tổng giá trị đầu tư thiết bị trong 10 năm (2001-2010) của Tổng công ty khoảng trên 6.000 tỷ đồng. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, Tổng công ty là 1 trong 5 doanh nghiệp lớn trong nước, hàng năm đưa khoảng 1.100 lao động đi các nước, số lao bình quân ở nước ngoài trên 3.000 người. Trong tổ chức sản xuất, Tổng công ty đã thực hiện tốt công tác sắp xếp, tổ chức sản xuất từ Công ty Mẹ đến các công ty con, theo đó đến năm 2007 đã hoàn thành cổ phần hóa tất cả các đơn vị thành viên; đã có 49 công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Kết quả sau sắp xếp, hầu hết các doanh nghiệp thành viên năng động, tự chủ trong sản xuất; Qui mô sản xuất (sản lượng, doanh thu, lợi nhuận) đều tăng cao, tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo tích lũy phát triển doanh nghiệp, người lao động có đủ việc làm, thu nhập của CBCNV ngày càng được nâng cao.Tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch; sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, đảm bảo tích lũy và phát triển; vốn chủ sở hữu của TCT liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể: Tốc độ tăng trưởng giá trị SXKD bình quân trong 10 năm (2001-2010) là 31%, trong đó năm 2010: 24.355 tỷ đồng, tăng gấp 11,1 lần so với năm 2001; doanh thu năm 2010: 21.500 tỷ đồng, tăng gấp 11,3 lần so với năm 2001; nộp nhà nước năm 2010: 1.168 tỷ đồng, tăng gấp 25,1 lần so với năm 2001; lợi nhuận trước thuế năm 2010: 1.250 tỷ đồng, tăng gấp 57 lần so với năm 2001; vốn chủ sở hữu đến 31/12/2010: 11.300 tỷ đồng, tăng gấp 41,9 lần so với năm 2001, vốn nhà nước đến 31/12/2010: 4.500 tỷ đồng, tăng gấp 18 lần so với năm 2001; tổng tài sản đến 31/12/2010: 38.000 tỷ đồng, tăng gấp 18,1 lần so với năm 2001.

Giai đoạn từ năm 2010 đến nay: Ngay sau khi được thành lập, Tập đoàn đã sớm ổn định và đi vào hoạt động theo đúng Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đang triển khai xây dựng chiến lược phát triển Tập đoàn đến năm 2015 tầm nhìn đến năm 2020 có tính tới năm 2030 và chiến lược kinh doanh của các Tổng công ty, công ty con thuộc Tập đoàn; thực hiện tái cơ cấu lại các công ty con thành các đơn vị chuyên ngành để tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ sức cạnh tranh với các Tập đoàn kinh tế lớn trong khu vực và thế giới, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ: Trong suốt chặng đường 50 năm xây dựng và trưởng thành, đồng thời với sự ủng hộ, chỉ đạo và giúp đỡ của Đảng, Chính phủ, các Bộ Ngành, nhất là Bộ Xây dựng…là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Tổng công ty Sông Đà và sự đoàn kết, nhất trí, năng động, sáng tạo của thế hệ cán bộ Lãnh đạo, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật của Tổng công ty với tinh thần giám nghĩ, giám làm, giám chịu trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, vướng mắc về cơ chế để quyết định kịp thời, nhằm đưa Tổng công ty phát triển ổn định vững chắc. Đảng ủy đã thực hiện chức năng lãnh đạo và kiểm tra, giám sát các mặt công tác của tổ chức đảng trực thuộc; lãnh đạo nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức, cán bộ, công tác xây dựng đảng, các đoàn thể quần chúng nhằm tổ chức, giáo dục và động viên cán bộ, đảng viên và người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng chính quyền, các đoàn thể quần chúng và đội ngũ công nhân viên vững mạnh, phát huy truyền thống của giai cấp công nhân; giữ vững vai trò, vị trí then chốt của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Lãnh đạo việc tổng kết thực tiễn, đề xuất với các cấp có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để Tổng công ty nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hội nhập và phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Lãnh đạo công tác tổ chức xây dựng đảng bộ; đề ra chủ trương, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện tốt việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng các đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh. Lãnh đạo, chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ thực hiện Điều lệ đảng, bồi dưỡng cấp ủy viên và cán bộ chuyên trách công tác đảng; thực hiện quản lý toàn diện tổ chức đảng và đảng viên giữ mối liên hệ với cấp ủy địa phương nơi cư trú; thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, làm tốt công tác phát triển đảng viên. Thực hiện việc đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên, công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật đảng theo đúng quy định. Xây dựng tập thể cấp ủy có bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực, uy tín và hoạt động có hiệu quả; là trung tâm đoàn kết nội bộ lãnh đạo, trong tổ chức đảng và doanh nghiệp, đơn vị. Lãnh đạo các tổ chức quần chúng tích cực tham gia xây dựng tổ chức đảng và đảng viên. Lãnh đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Lãnh đạo và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Chống suy thoái về tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống; phòng chống tham nhũng, lãnh phí có hiệu quả. Chủ động phát hiện, kịp thời ngăn chặn tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm; xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và cán bộ đảng viên sai phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lãnh đạo công đoàn, Đoàn thanh niên, phụ nữ trong Tổng công ty, các công ty thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ mỗi đoàn thể; xây dựng tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, xây dựng giai cấp công nhân ngành thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy quyền làm chủ của người lao động; bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động và nhà đầu tư.

Trong công tác chính trị tư tưởng, Đảng ủy Tập đoàn Sông Đà luôn quan tâm, không ngừng đổi mới và bám sát yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của Tập đoàn; đã tổ chức triển khai, học tập các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến tận cán bộ đảng viên và công nhân viên; giáo dục truyền thống đạo đức cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước, tính tiên phong của người cán bộ, đảng viên. Cổ vũ, động viên, tổ chức phong trào thi đua yêu nước trong CNVC lao động tạo thành sức mạnh đoàn kết, phát huy sức sáng tạo, tinh thần quyết tâm vượt lên mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Trong các giai đoạn xây dựng và phát triển của mình, Tổng công ty Sông Đà luôn xuất hiện những tấm gương lao động xuất sắc như giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1995 trên Công trình xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình có 05 anh hùng lao động: Trần Thọ Chữ, Nguyễn Văn Bình, Lê Thị Ngừng, Nguyễn Hữu Tươi, Đào Công Chững. Đồng thời, đây còn là nơi trưởng thành của nhiều thế hệ cán bộ cấp cao đã và đang đảm nhận trên những cương vị trọng trách của Đảng và Chính phủ, trở thành những đại biểu ưu tú của nhân dân, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp đổi mới của đất nước như các đồng chí: Phan Ngọc Tường - Cố Bộ trưởng - Trưởng ban Tổ chức Chính phủ; Ngô Xuân Lộc - Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Hồng Quân - Bộ trưởng Bộ Xây dựng; Thang Văn Phúc - Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ và nhiều đồng chí khác. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2010 là giai đoạn Tổng công ty phát triển mạnh mẽ, vượt bậc; đóng góp vào thành quả ấy không thể không nhắc tới công lao to lớn của các Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới như: Cao Lại Quang, Lê Văn Quế, Nguyễn Văn Thêm, Bùi Văn Thọ, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Bá Lộc, Đỗ Yên Sơn, Nguyễn Duy Hoàn, Nguyễn Văn Nhi và những tấm gương tiêu biểu suất xắc, năng động sáng tạo như: Nguyễn Khắc Kiên, Đinh La Thăng, Nguyễn Tiến Cầm, Dương Khánh Toàn,...cùng nhiều tấm gương tiêu biểu khác là những người đã làm nên sự khác biệt của Tổng công ty Sông Đà năm xưa và Tập đoàn Sông Đà ngày nay.

Trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, Tập đoàn Sông Đà luôn đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo việc làm và thu nhập cho CBCNV, quan tâm tổ chức nơi ăn, ở cho người lao động tại các công trường, nhà máy; trang bị các phương tiện truyền thông, thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần ngày càng cao của CBCNV, đặc biệt là tại các công trường vùng sâu, vùng xa. Thực hiện tốt chính sách đối với người lao động, đảm bảo chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đào tạo nghề cho người lao động. Đồng thời đã thực hiện tốt việc việc giải quyết “Hậu Sông Đà” cũng như giải quyết cho CBCNV nghỉ theo Chế độ 41 của Chính phủ khi sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp.

Nhằm thắt chặt tình cảm và mối quan hệ gắn bó với các địa phương trong cả nước, Tập đoàn đã xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng lao động của địa phương nơi Tập đoàn có các công trình, dự án, như đào tạo và sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số tại Tây Bắc, Tây Nguyên và Lào.

Tập đoàn Sông Đà là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ về chương trình hỗ trợ các huyện nghèo. Hiện nay, Tập đoàn Sông Đà đã và đang thực hiện hỗ trợ 02 huyện nghèo Mường La và Phù Yên của Tỉnh Sơn La với giá trị là 40,695 tỷ đồng.
Tích cực ủng hộ đồng bào vùng bị thiên tai, bão lụt, từ thiện, nhân đạo; nhận phụng dưỡng suốt đời nhiều Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; xây dựng các quỹ khuyến học; ủng hộ kinh phí kiên cố hóa trường lớp học cho các xã nghèo vùng sâu, vùng xa; ủng hộ gây quỹ vì người nghèo, xây dựng mái ấm Công đoàn; giúp đỡ các CBCNV gặp hoàn cảnh khó khăn,..

Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, Tập đoàn Sông Đà đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tự mình vun đắp, xây dựng nên một truyền thống vô cùng quý giá và là nét đặc trưng rất Sông Đà. Đó là truyền thống lao động dũng cảm, cần cù, thông minh và sáng tạo; truyền thống trung thực, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của mọi tập thể và cá nhân trong từng đơn vị và Tập đoàn- đây là nguồn gốc cơ bản để tạo nên sức mạnh của Tập đoàn qua nhiều thế hệ; truyền thống về tình cảm và sự quan tâm sâu sắc, sự tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, giữa tập thể và cá nhân trong cộng đồng Sông Đà qua nhiều thế hệ, giữa Tập đoàn Sông Đà với các đơn vị bạn và nhân dân các địa phương trong cả nước; truyền thống thi đua yêu nước luôn vượt qua mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao và truyền thống say mê học tập, nghiên cứu khoa học, không ngừng vươn lên, nâng cao trình độ về mọi mặt, làm chủ mọi công nghệ, thiết bị tiên tiến.

Có thể nói, lịch sử phát triển của Tập đoàn Sông Đà luôn gắn liền với các công trình trọng điểm của đất nước. Đó là các nhà máy thuỷ điện: Thác Bà (110MW), Hoà Bình (1.920MW), Trị An (400MW), Vĩnh Sơn (66MW), Yaly (720 MW), Sê San 3 (273MW), Tuyên Quang (342 MW), Sơn La (2.400 MW), Lai Châu (1.200MW)…; Đường dây 500KV Bắc – Nam; Nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy dệt Minh Phương, Nhà máy xi măng Bút Sơn; Đường Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18, đường Hồ Chí Minh, Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân…

 

         sda1_50.jpg

Để ghi nhận những thành tích to lớn mà TCT Sông Đà đã đạt được trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã hai lần được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Huân chương sao vàng (dự kiến tháng đầu tháng 6/2011); 04 tập thể và 14 cá nhân Anh hùng lao động, trong đó TCT Sông Đà là doanh nghiệp XD đầu tiên vinh dự được nhận danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới; 03 Huân chương độc lập hạng nhất, 05 Huân chương độc lập hạng nhì, 07 Huân chương độc lập hạng ba, 20 Huân chương Lao động hạng nhất, 42 Huân chương Lao động hạng nhì, 267 Huân chương Lao động hạng ba cho các tập thể, cá nhân và nhiều danh hiệu cao quí khác

Người Sông Đà tự hào vững tin vào tương lai: Người Sông Đà hơn lúc nào hết luôn nhận thức rằng: vinh dự luôn đi kèm với trách nhiệm, vinh dự càng lớn thì trách nhiệm càng nặng nề; nhiệm vụ và thách thức từ nay trở đi sẽ ngày càng to lớn, khốc liệt, đòi hỏi CBCNV Tập đoàn Sông Đà phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa để cùng nhau xây dựng, phát triển Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam vững mạnh như kỳ vọng của Đảng và Chính phủ là đến năm 2015 xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam thành Tập đoàn kinh tế mạnh ở trong nước và khu vực, có quy mô lớn, hiện đại, đa sở hữu, sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao trên 6 lĩnh vực chính: xây dựng; lắp đặt thiết bị; sản xuất công nghiệp; cơ khí, chế tạo; đầu tư khu công nghiệp và đô thị; đầu tư tài chính. Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tập đoàn, góp phần to lớn vào sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Trở thành một nhà sản xuất công nghiệp lớn, đứng trong Top 5 của Việt Nam; nhà chế tạo cơ khí mạnh, đứng trong Top 10 khu vực ASEAN; Tổng thầu xây lắp và tổng thầu EPC mạnh, đứng trong Top 5 khu vực ASEAN; nhà đầu tư đô thị, khu công nghiệp lớn trong nước. Tổng giá trị SXKD: 102.000 tỷ đồng, tăng gấp 1,83 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng giá trị SXKD bình quân hàng năm khoảng 13%; doanh thu: 85.500 tỷ đồng, tăng gấp 1,85 lần so với năm 2010; nộp nhà nước: 3.700 tỷ đồng, tăng gấp 1,4 lần so với năm 2010; lợi nhuận trước thuế: 4.500 tỷ đồng, tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010; vốn chủ sở hữu: 35.100 tỷ đồng, tăng gấp 1,93 lần so với năm 2010; tổng tài sản: khoảng 117.400 tỷ đồng, tăng gấp 1,63 lần so với năm 2010; giá trị đầu tư: khoảng 27.300 tỷ đồng, tăng gấp 2,3 lần so với năm 2010; thu nhập bình quân tháng 1 CBCNV: 6 triệu đồng, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010với tổng số CBCNV: 100.000 người.

Chặng đường 50 năm hình thành, xây dựng và phát triển, trải qua bao đổi thay thăng trầm, đã có những quãng ngày cực kỳ gian khó tưởng chừng không thể vượt qua nổi…nhưng những người Sông Đà luôn luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên, càng khó khăn gian khổ càng thấm đẫm tình đoàn kết yêu thương, đùm bọc, chở che lẫn nhau, càng vun đắp nâng cao tính cộng đồng và đã nhận về mình sứ mệnh lịch sử đào núi ngăn sông, biến thủy năng thành thủy điện. Lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân viên của Tổng công ty Xây dựng thủy điện Sông Đà năm xưa và nay là Tập đoàn Sông Đà có quyền tự hào về những đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào việc thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Và mỗi khi nghĩ đến họ, tâm hồn mỗi chúng ta lại ngất ngây, bồi hồi, xúc động, hồi tưởng về những năm tháng thăng trầm, gian khó nhưng rất đỗi hào hùng mà họ đã trải qua, đặc biệt là như được sống lại trong không khí vui sướng đến tột cùng trong Ngày ngăn sông, giờ phút chạy không tải Tổ máy I…; trào dâng cảm xúc da diết, thân thương và nhân lên gấp bội tình cảm thắm đượm tình đồng chí, đồng đội, với biết bao sẻ chia, gắn bó. Chính họ đã thổi vào tâm hồn mỗi chúng ta niềm khát khao muốn hiến dâng tất cả trí tuệ cho ngành, cho Tổ quốc; thúc dục, động viên, vẫy gọi, trang bị hành trang và tiếp thêm nghị lực cho chúng ta vững bước thẳng tới tương lai tươi sáng. Cũng chính họ từng ngày, từng giờ đang hun đúc ý chí quyết tâm, truyền cảm hứng sáng tạo, lòng tự hào, say mê cho lớp lớp thế hệ con cháu mình gìn giữ và phát huy truyền thống Sông Đà, đi lên với thái độ tự tin để nhân lên gấp bội sức mạnh, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự lớn mạnh của Tập đoàn hiện tại và tương lai.

                           

                                          

 

 

.
.
.
.