.
.

Bài dự thi giải Búa liềm vàng lần thứ IV - 2019:

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm thực hiện thành công chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

Thứ Tư, 09/10/2019|20:47

Bước vào giai đoạn phát triển mới, với những yêu cầu thực tiễn khách quan đặt ra cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) - với tư cách là một định chế tài chính đặc thù - phải tự làm mới phù hợp với bối cảnh tình hình, có bước chuyển mình mang tính đột phá, đủ sức đảm đương và hoàn thành sứ mệnh là một công cụ quan trọng trong phục vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ theo Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 (gọi tắt là Chiến lược 369).

Mô hình Ngân hàng Phát triển (NHPT) đã và đang tồn tại ở nhiều nước phát  triển như Mỹ, Đức, Pháp… và đặc biệt có vai trò rất quan trọng đối với các nước đang phát triển. NHPT với tư cách là các tổ chức tài chính Nhà nước như NHPT Trung Quốc (CDB), NHPT Nhật (DBJ), NHPT Hàn Quốc (KDB) hoặc với tư cách là tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng khu vực như NHPT Châu Á (ADB).

Ở Việt Nam, trước yêu cầu đổi mới chính sách tín dụng đầu tư (TDĐT) và tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước phù hợp với lộ trình cam kết gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngày 19/5/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển (Quỹ HTPT) để thực hiện chính sách TDDT và TDXK của Nhà nước. Trải qua chặng đường gần 15 năm hình thành và hoạt động theo mô hình mới với một tập thể hơn 3.000 cán bộ viên chức, VDB nỗ lực không ngừng, sáng tạo, đoàn kết, vượt qua thách thức, hoàn thành nhiệm vụ được giao và đã từng bước phát huy vai trò của một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, trở thành một định chế tài chính quan trọng cung cấp nguồn lực tài chính cho tăng trưởng kinh tế, có những đóng góp nhất định vào sự thành công của các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Kết quả hoạt động của VDB gắn liền với kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và chiến lược phát triển của đất nước, được Đảng và Chính phủ ghi nhận.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, với những yêu cầu thực tiễn khách quan đặt ra cho VDB - với tư cách là một định chế tài chính đặc thù - phải tự làm mới phù hợp với bối cảnh tình hình, có bước chuyển mình mang tính đột phá, đủ sức đảm đương và hoàn thành sứ mệnh là một công cụ quan trọng trong phục vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ theo Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 – đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 (gọi tắt là Chiến lược 369).

Xuất phát từ thực tiễn ấy, Đại hội Đại biểu Đảng bộ VDB lần thứ II – Nhiệm kỳ 2015 – 2020, đã xác định phương châm “Đoàn kết – Đổi mới – Dân chủ – Phát triển”. Nghị quyết Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát của nhiệm kỳ mới: “Tiếp tục xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; đổi mới toàn diện và đồng bộ; nâng cao hiệu quả hoạt động của VDB; phát huy vai trò là công cụ của Đảng và Nhà nước trong thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội”. Với một trong 04 trọng tâm là: “Lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống thực hiện thành công lộ trình tái cơ cấu VDB theo định hướng Chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phù hợp với tình hình thực tiễn; sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy, cán bộ đảm bảo tinh gọn, hiệu quả; từng bước tiếp cận mô hình quản trị ngân hàng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành giai đoạn 2016-2020”.

Chương trình hành động của Đảng ủy VDB thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Đại hội Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương lần thứ II và Đại hội Đảng bộ VDB lần thứ II, nêu quyết tâm “Củng cố và xây dựng VDB phát triển bền vững, hiệu quả, phát huy vai trò công cụ tài chính của Đảng và Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ cho vay đầu tư phát triển góp phần thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Về nhiệm vụ chính trị, có 03 mục tiêu cụ thể: (i) tăng trưởng quy mô; (ii) an toàn tài chính; (iii) chất lượng hoạt động. Việc “nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động” là nhóm giải pháp hàng đầu trong 05 nhóm giải pháp thực hiện chương trình.

Là người lao động đã gắn bó với Ngành trên 20 năm, từ các tổ chức tiền thân (như Tổng cục Đầu tư Phát triển; Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia; Quỹ Hỗ trợ phát triển), đang tiếp tục đồng hành vì sự nghiệp VDB từ ngày đầu thành lập (19/5/2006), tôi nhận thức được rằng trên mỗi chặng đường đã qua và sẽ tới của VDB, không chỉ là màu hồng mà đong đầy mồ hôi, công sức và cả sự hy sinh của mỗi cán bộ viên chức, người lao động (CBVC) trong Ngành qua nhiều thế hệ. Tất cả đã được khắc họa đậm nét trong ký ức của mỗi người và lưu vào từng trang Kỷ yếu của Ngành ở từng cột mốc 03 năm – 05 năm và 10 năm thành lập.

Với cá nhân tôi, trong khuôn khổ bài viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm thực hiện thành công chiến lược phát triển ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, mong muốn chia sẻ nhận thức, suy nghĩ của mình đối với những công việc mà mỗi tập thể, mỗi CBVC trong hệ thống VDB đã và đang nỗ lực trong tiến trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng các cấp; gắn với hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược 369. Như một lăng kính phản ánh thực tiễn tiến trình triển khai nhiệm vụ của VDB, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội II đến hiện tại, nội dung bài viết bao gồm 03 kỳ:

Kỳ 1: Tái cơ cấu hoạt động của VDB – nhìn từ thực tiễn triển khai thực hiện các Nghị quyết Trung ương Khóa XII.

Kỳ 2: Xây dựng mô hình Chi nhánh Khu vực, nâng cao năng lực thực thi chính sách tín dụng của Nhà nước trên từng địa bàn.

Kỳ 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của VDB – thách thức và giải pháp.

Đây cũng là tác phẩm hưởng ứng cuộc vận động tham gia Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa Liềm vàng) lần thứ IV – năm 2019, theo Kế hoạch số 71-KH/ĐK ngày 19/4/2019 của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương; văn bản số 110-CV/TGĐU ngày 25/4/2019 của Ban Tuyên Giáo Đảng ủy VDB; văn bản số 182-CV/ĐU ngày 13/6/2019 của Đảng ủy Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Khu vực Sông Tiền.

Hy vọng rằng, bài dự thi phản ánh được một phần thực tiễn hoạt động của Đảng bộ VDB trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; đưa các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, đồng hành cùng sự nghiệp phát triển đất nước./.

KỲ 1: Tái cơ cấu hoạt động của VDB – nhìn từ thực tiễn triển khai thực hiện các nghị quyết trung ương khóa XII

Ngay sau Đại hội Đảng đại biểu Đảng bộ VDB lần thứ II – Nhiệm kỳ 2015 -2020 được tổ chức thành công, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy VDB, toàn hệ thống đã và đang bắt tay triển khai thực hiện rất nhiều chỉ tiêu nhiệm vụ, cùng với những bước đi cụ thể. Trong đó, quan trọng nhất là tập trung thực hiện nhiệm vụ giai đoạn 2 - tái cơ cấu hoạt động VDB theo Chiến lược 369.

Quá trình này được tiến hành với 03 nội dung cơ bản(1): (i) Tập trung xây dựng, hoàn thiện Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; (ii) Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, ban hành cơ chế chính sách mới, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ; hoàn thiện hệ thống văn bản quản trị nội bộ; (iii) Kiện toàn bộ máy, sắp xếp lại nhân sự; từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.

Theo đánh giá của lãnh đạo VDB, mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức song với quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc quyết liệt của toàn hệ thống trong điều kiện phải triển khai thực hiện một khối lượng công việc rất lớn, đã đạt được những kết quả quan trọng. Cụ thể, Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu VDB đã được Bộ Chính trị xem xét cho ý kiến, đang được tiếp tục hoàn thiện báo cáo Bộ Tài chính trình cấp thẩm quyền xem xét phê duyệt(2). Về cơ chế chính sách, ngày 31/3/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2017/NĐ-CP về tín dụng đầu tư của Nhà nước, cùng với đó là một số văn bản hướng dẫn của Bộ ngành liên quan; văn bản quản trị nội bộ VDB, đến hết năm 2017 đã có 19/70 văn bản đã ban hành, năm 2018 tiếp tục nghiên cứu, xây dựng ban hành 47 văn bản mới, rà soát bổ sung, sửa đổi 09 quy chế, quy trình, quy định và hướng dẫn tác nghiệp(3).Về kiện toàn bộ máy, sắp xếp nhân sự, đến cuối giai đoạn 1 VDB có 45 đầu mối hoạt động trên phạm vi cả nước (Trụ sở chính và 44 Chi nhánh, Sở giao dịch). Thời gian tới sẽ tiếp tục thu gọn một số đơn vị có khối lượng công việc ít, đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra lúc thành lập. Cùng với đó, rà soát lại đội ngũ, quy hoạch cán bộ các cấp từ Chi nhánh đến Trụ sở chính; thực hiện sắp xếp, điều động, luân chuyển cán bộ (Chỉ tính riêng trong năm 2017, đã có 48 lượt cán bộ các cấp được sắp xếp, luân chuyển, bố trí nhiệm vụ mới)(4). Khi Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu được cấp thẩm quyền phê duyệt, VDB sẽ chính thức triển khai mô hình tổ chức bộ máy mới, gắn với quy định cụ thể mô tả công việc, khung năng lực từng vị trí(5).

Nhìn lại, quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ của VDB thời gian qua, với những kết quả bước đầu, có thể nói đây là những nỗ lực rất tích cực của toàn hệ thống. Không chỉ vậy, những công việc này còn thật sự có ý nghĩa khi đặt trong bối cảnh cả nước đang khẩn trương quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết được Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Khóa XII ban hành trong thời gian gần đây.

Về tổ chức bộ máy, theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Trung ương xác định đây là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới. Bảo đảm tính đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông, không nôn nóng đi từ cực này sang cực khác, không bi quan khi đương đầu với nhiều khó khăn, phức tạp.

Đối với VDB, tổ chức bộ máy hiện tại đã được thu gọn một bước về đầu mối, giảm 29% so với trước, nhất là mạng lưới Chi nhánh. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ VDB lần thứ II - Nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định “Tiếp tục tổ chức lại để hình thành các Chi nhánh VDB vùng, VDB khu vực”. Chương trình hành động số 32-Ctr/ĐU ngày 15/9/2016 của Đảng ủy VDB đã xác định “thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cán bộ các đơn vị Trụ sở chính và các Sở Giao dịch/Chi nhánh theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp và hiệu quả phù hợp với đặc điểm hoạt động của VDB theo quy định của Chính phủ”. Tại kết luận số 175-KL/ĐU ngày 22/6/2018, Hội nghị BTV Đảng ủy VDB đã thống nhất chủ trương thành lập Chi nhánh VDB Khu vực Đông Bắc trên cơ sở giải thể, tổ chức lại VDB Quảng Ninh và VDB Hải Phòng. Không chỉ dừng lại ở đó, khi Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu VDB được cấp thẩm quyền phê duyệt, triển khai thực hiện chắc chắn sẽ có bước chuyển mạnh mẽ hơn. Như vậy, việc chủ động trong tổ chức thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của VDB trong thời gian qua không chỉ là công việc nội bộ của Ngành, mà có thể đánh giá là phù hợp với tiến trình chung của cả nước theo chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (NQ26) xác định mục tiêu tổng quát là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Một trong ba mục tiêu cụ thể được xác định, đó là đến năm 2020 thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trung ương nhấn mạnh “cần phải có quyết tâm rất lớn, sự thống nhất rất cao, lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, nói đi đôi với làm, làm cho Nghị quyết lần này thực sự đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến rõ rệt, thu được kết quả cụ thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhìn thấy được, cảm nhận được”.

Đối với VDB, để thực hiện thành công mục tiêu của giai đoạn 2 của quá trình tái cơ cấu hoạt động, cần phải thực hiện tốt nhiều phần việc quan trọng, nhất là vấn đề kiện toàn và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp theo đúng tinh thần NQ 26. Nếu như việc chấp hành, tuân thủ nguyên tắc trong công tác cán bộ từ lâu đã được VDB chú trọng, thì nay trong bối cảnh mới lại phải được chú trọng thực hiện tốt hơn; cần cụ thể hóa và nỗ lực hơn để “xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định”.Thực tiễn cho thấy, công tác tuyển chọn xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo hội đủ yếu tố “vừa hồng”, “vừa chuyên” là việc không dễ dàng nhưng sẽ thực hiện được nếu có quyết tâm chính trị cao của mỗi cấp ủy, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Phải thật sự lấy kết quả, hiệu quả đo lường năng lực cán bộ; thông qua sản phẩm, việc làm cụ thể để đánh giá và cất nhắc cán bộ từ thấp lên cao, vào những vị trí/cương vị phù hợp. Đội ngũ cán bộ chủ chốt ngoài đạo đức tốt, phải có trình độ hiểu biết/giải quyết công việc ngang tầm với yêu cầu của vị trí, vai trò mà họ được kỳ vọng, đặt để. Đó phải thật sự là những người biết “Ăn không trọn bữa, ngủ không trọn giấc, nghỉ phép không trọn ngày” để thực hành chức trách nhiệm vụ chứ không phải là “quan cách mạng” chỉ biết giao việc cho cấp dưới. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt phải là một quá trình và nhất thiết phải có sự nhìn nhận, đánh giá và tôn vinh của tập thể quần chúng theo đúng tinh thần NQ 26, đó là phát huy vai trò “nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ”. Việc triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ gắn với tinh thần đưa NQ 26 đi vào thực tiễn phù hợp với bối cảnh tình hình, điều kiện hoạt động của VDB hiện nay không chỉ mang ý nghĩa chính trị, mà là việc làm đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn. Quá trình đó cần chú trọng đi vào hai trọng tâm và năm đột phá đã được xác định. 

Về vấn đề tiền lương, Nghị quyết số 27-NQ/TW “Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp” (NQ 27) của Trung ương khẳng định: Chính sách tiền lương (CSTL) là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối lớn của nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách CSTL, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Mục tiêu tổng quát của NQ 27 là xây dựng hệ thống CSTL quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Có 6 nhóm giải pháp được đề ra, trong đó có việc “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm” và “Xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới”.

Theo Điều lệ tổ chức và hoạt động được ban hành kèm theo Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/2015, tại Khoản 1, Điều 3 quy định địa vị pháp lý, tư cách pháp nhân của VDB “Là ngân hàng chính sách, hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng, ban hành Bảng lương VDB xuất phát từ yêu cầu đảm bảo tính tuân thủ pháp luật theo tinh thần Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Bộ luật Lao động về tiền lương và Thông tư số 17/2015/TT-BLĐTBXH ngày 22/4/2015 hướng dẫn xây dựng thang lương, bảng lương và chuyển xếp lương đối với người lao động trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (đã có hiệu lực từ ngày 10/6/2015). Đồng thời, có xét đến tính chất đặc thù về hoạt động, dựa trên cơ sở văn bản số 956/LĐTBXH-LĐTL ngày 24/3/2016 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và văn bản số 12844/BTC-TCNH ngày 15/9/2016 của Bộ Tài chính. Bảng lương, chế độ phụ cấp lương trong hệ thống VDB đã được Hội đồng quản trị ban hành theo Quyết định số 13/QĐ-HĐQT ngày 18/01/2017, có sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 193/QĐ-HĐQT ngày 06/7/2017. Việc triển khai thực hiện cơ chế tiền lương mới đã được tiến hành theo hướng dẫn của Tổng Giám đốc tại văn bản số 228/NHPT-TCCB ngày 08/02/2017 và văn bản số 476/NHPT-TCCB ngày 09/3/2017. Có thể nói, việc chuyển xếp lương, phụ cấp lương cho người lao động VDB từ thang, bảng lương cũ (Theo Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ) sang bảng lương, chế độ phụ cấp lương VDB là bước đi đáp ứng yêu cầu thực tiễn triển khai nhiệm vụ, phù hợp quy định của pháp luật. Thời gian tới, việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế phân phối, chi trả tiền lương mới của VDB sẽ được tiếp tục thực hiện trong tổng thể chương trình xây dựng hệ thống văn bản quản trị nội bộ của Ngành. Công việc này chắc chắn sẽ được tiến hành trên cơ sở quán triệt quan điểm NQ 27, đó là “Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ hài hòa, ổn định và tiến bộ”. Bám sát mục tiêu chung được đề ra cho giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030: “Thực hiện chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động và đại diện tập thể người lao động; Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp”. Đồng thời, “Thực hiện quản lý lao động, tiền lương theo phương thức khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ”. Một trong những vấn đề quan trọng trong triển khai thực hiện nhiệm vụ của VDB trong giai đoạn mới, gắn với tinh thần NQ 27 là “Sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, NLĐ; tạo nguồn bền vững cho cải cách chính sách tiền lương”.

Tóm lại, với VDB, những công việc đã và đang triển khai từ đầu nhiệm kỳ 2015-2020, nhằm hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược 369, với bước đi thận trọng, phù hợp thực tiễn, gắn với điều kiện cụ thể của Ngành.

Nhìn nhận, đánh giá quá trình ấy theo quan điểm các Nghị quyết Trung ương khóa XII càng thấy rõ hơn ý nghĩa, giá trị sự nỗ lực của mỗi CBVC toàn hệ thống làm theo “Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII và các Chương trình hành động của Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương thực hiện Nghị quyết” -số 58-Ctr/ĐU ngày 03/01/2018 của Đảng ủy VDB.

--

Ghi chú:

(1). Nghị quyết số 05-NQ/ĐU ngày 24/01/2017 của Đảng ủy VDB.

(2). Văn bản số 196/NHPT-HĐQT ngày 22/6/2018 của Hội đồng quản trị VDB.

(3). Thông báo số 35/TB-HĐQT ngày 08/02/2018 của Hội đồng quản trị VDB.

(4). BC tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2017, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2018 của VDB

(5). Chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT VDB năm 2017, số 25/HĐQT ngày 24/02/2017.

Kỳ 2: Xây dựng mô hình chi nhánh khu vực, nâng cao năng lực thực thi chính sách tín dụng của nhà nước trên từng địa bàn

 “Tổ chức lại bộ máy các Chi nhánh và Sở giao dịch cho phù hợp với định hướng về phạm vi, quy mô hoạt động theo hướng hình thành các Chi nhánh Khu vực, theo đó đến cuối năm 2015 toàn hệ thống còn khoảng 45 Chi nhánh”, là một trong những mục tiêu quan trọng trong 04 định hướng hoạt động theo Chiến lược 369.

Về tổ chức bộ máy, kế thừa bộ máy tổ chức của Quỹ HTPT, tại thời điểm thành lập hệ thống VDB có 18 Ban, Văn phòng, Trung tâm tại Hội sở chính, 01 Sở Giao dịch tại Hà Nội, 61 Chi nhánh Chi nhánh trực thuộc (Gồm 02 Chi nhánh VDB Khu vực tại Đắc Lắc - Đắc Nông, Cần Thơ - Hậu Giang và 59 Chi nhánh tại các tỉnh, thành phố).

Bước đi ban đầu trong việc tổ chức Chi nhánh theo Khu vực

Thực hiện chỉ đạo của Thường trực Chính phủ tại công văn số 1397/VPCP-KTTH ngày 17/3/2006 và kiến nghị của Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội tại Báo cáo số 448/UBTCNS12 ngày 17/9/2008, Ban Lãnh đạo VDB thống nhất phương án sắp xếp kiện toàn lại mạng lưới Chi nhánh VDB theo mô hình khu vực. Theo đó, Chi nhánh Khu vực (CNKV) sẽ được thành lập ở địa bàn đang có nhiều Chi nhánh nhưng quy mô tín dụng thấp, dự báo khó có khả năng tăng trưởng quy mô tín dụng cũng như không có khả năng khai thác các dự án đầu tư. Mô hình này sẽ tiết kiệm được chi phí quản lý, tập trung nguồn lực, mặt khác sẽ nâng cao hiệu quả trong công tác tín dụng, thanh toán tạo cơ hội tốt để đưa hoạt động của VDB tiến tới minh bạch, tự chủ. Đây cũng là mô hình của một số tổ chức quốc tế tương tự trong khu vực và trên thế giới. Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát của VDB đối với các Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, Hàn Quốc, Ngân hàng Tái thiết Đức... thì hầu hết các tổ chức này đều có đầu mối quản lý tinh gọn, năng lực tổ chức quản lý tập trung ở Hội Sở chính, Sở Giao dịch và một số Chi nhánh lớn có phạm vi hoạt động rộng về mặt địa giới hành chính.

Từ đánh giá thực trạng các chỉ tiêu cơ bản về tình hình hoạt động, khả năng tăng trưởng tín dụng, điều kiện phát triển kinh tế -  xã hội của địa phương và đội ngũ cán bộ; sau khi làm việc trực tiếp và được thống nhất ý kiến của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân 06 tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Bạc Liêu và Cà Mau, ngày 01/01/2009 Ban lãnh đạo VDB đã triển khai thành công thí điểm bước 1 thành lập và đưa vào hoạt động 03 CNKV: (1) Bắc Kạn –Thái Nguyên; (2) Bắc Ninh – Bắc Giang; (3) Minh Hải.

Tổng Giám đốc VDB đã ban hành Quy chế tổ chức hoạt động của các CNKV và Phòng giao dịch (PGD); phê duyệt tổ chức bộ máy (Tại thời điểm thành lập, các CNKV đều có 07 Phòng chức năng, nghiệp vụ và 01 PGD); bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo CNKV theo nguyên tắc giữ nguyên các Lãnh đạo của 06 Chi nhánh: Trong số 02 Giám đốc trước đây bổ nhiệm 01 người giữ chức Giám đốc CNKV, người còn lại bổ nhiệm Phó Giám đốc CNKV kiêm Trưởng PGD nhằm tiếp tục duy trì và phát triển các hoạt động của Chi nhánh trước đây.

Phương án thành lập CNKV và việc bố trí sắp xếp lại cán bộ đã được các Chi nhánh thảo luận kỹ trong tập thể Lãnh đạo Chi nhánh và cấp ủy Đảng theo nguyên tắc rà soát sắp xếp lại đội ngũ cán bộ nghiệp vụ để bố trí phù hợp với năng lực cán bộ, có xem xét nguyện vọng của mỗi CBVC nhưng vừa đảm bảo tôn trọng nguyên tắc tập trung, dân chủ, khách quan vừa đảm bảo yêu cầu kiện toàn bộ máy tổ chức một cách hợp lý và hiệu quả. Đối với các CBVC phải thay đổi địa điểm làm việc sau khi thành lập CNKV, Tổng Giám đốc VDB đã có chính sách hỗ trợ hợp lý đảm bảo ổn định đời sống, tư tưởng cho CBVC (Nhà công vụ, hỗ trợ sinh hoạt phí, bố trí phương tiện đi lại trong thời gian đầu).

Theo đánh giá của VDB, việc tổ chức lại 06 Chi nhánh thành 03 Chi nhánh khu vực đã được Ban lãnh đạo các Chi nhánh nhất trí cao về phương án cán bộ, làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ, viên chức nên việc sắp xếp lại diễn ra theo đúng chương trình, kế hoạch đề ra; không để phát sinh tư tưởng trong cán bộ, viên chức. Trên cơ cơ sở đúc kết, rút kinh nghiệm thí điểm tại 03 CNKV này, VDB tiếp tục triển khai bố trí sắp xếp lại bộ máy các Chi nhánh tại các đại bàn khác 1.

Như vậy, kể từ thời điểm 01/01/2009, bộ máy tác nghiệp VDB từ 62 đầu mối ban đầu, giảm 04, còn 58 đơn vị gồm 02 Sở Giao dịch (Sở Giao dịch I tại Hà Nội, Sở Giao dịch II tại Tp. Hồ Chí Minh – thành lập ngày 18/6/2007, trên cơ sở tổ chức lại Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh, theo Quyết định số 270/QĐ-NHPT Tổng Giám đốc VDB) và 56 Chi nhánh trực thuộc tại các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương (Trong đó có 05 CNKV).

Đến tháng 6/2012, Ban lãnh đạo VDB tiếp tục ban hành Quyết định Thành lập CNKV Đồng Tháp – An Giang (Trên cơ sở giải thể Chi nhánh NHPT An Giang, Chi nhánh NHPT Đồng Tháp). Cùng thời điểm này, Chi nhánh VDB Long An cũng được sáp nhập vào Sở Giao dịch II (Quyết định số 273/QĐ-NHPT ngày 27/6/2012). Mạng lưới VDB còn 54 Chi nhánh, Sở Giao dịch, trong đó có 06 CNKV và 48 Chi nhánh tại các tình, thành phố trực thuộc Trung ương.

Cũng cần nói thêm, trong giai đoạn này còn có các Chi nhánh VDB được sáp nhập vào Sở Giao dịch I, đó là: Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Bắc Ninh.

Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, tổ chức lại Chi nhánh, Sở Giao dịch

Tiến trình tái cơ cấu hoạt động VDB, được phân định rõ sẽ tiến hành và hoàn thành trong 03 giai đoạn, riêng giai đoạn 1 (từ năm 2013 đến năm 2015) tập trung thực hiện 05 nhóm công việc, trong đó có “Tổ chức lại bộ máy các chi nhánh và Sở giao dịch cho phù hợp với định hướng về phạm vi, quy mô hoạt động theo hướng hình thành các chi nhánh khu vực, theo đó đến cuối năm 2015 toàn hệ thống còn khoảng 45 Chi nhánh”.

Thực hiện mục tiêu trên, ngày 24/3/2015 Hội đồng quản lý VDB đã ban hành Nghị quyết số 64/NQ-HĐQL về tổ chức, sắp xếp lại các Chi nhánh, Sở Giao dịch . Trên cơ sở đó, Tổng Giám đốc VDB ký các quyết định thành lập 07 CNKV trên cơ sở giải thể, tổ chức lại 15 Chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các CNKV mới thành lập chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/5/2015, gồm có: (1) Hải Dương – Hưng Yên; (2) Nam Định – Hà Nam; (3) Khánh Hòa - Ninh Thuận; (4) Đà Nẵng - Quảng Nam; (5) Bến Tre - Tiền Giang; (6) Bình Dương - Bình Phước và (7) Thừa Thiên Huế - Quảng Trị. Riêng Chi nhánh VDB Tây Ninh sáp nhập vào Sở Giao dịch II. Như vậy, từ ngày 01/5/2015, VDB còn 46 đầu mối gồm 02 Sở Giao dịch và 44 Chi nhánh (Trong đó có 12 CNKV).

Đến phiên họp lần thứ 44, Hội đồng Quản lý VDB thống nhất quyết nghị các vấn đề xoay quanh tình hình thực hiện nhiệm vụ 9 tháng đầu năm 2015, giải pháp 3 tháng cuối năm của toàn hệ thống. Trong đó, có yêu cầu “Tiếp tục tổ chức, sắp xếp lại hệ thống bộ máy, nhân sự các Chi nhánh, Sở Giao dịch…đạt mục tiêu số lượng còn 44 đơn vị trong năm 2015” 2.

Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Quản lý NHPT, Tổng giám đốc VDB ban hành Quyết định số 503/QĐ-NHPT ngày 13/11/2015 giao nhiệm vụ triển khai thực hiện sắp xếp, thành lập các CNKV đợt 2 năm 2015. Tiếp đến ngày 20/11/2015, Hội đồng Quản lý VDB ban hành Quyết định số 279/QĐ-HĐQL thành lập CNKV Cần Thơ (Trên cơ sở giải thể, tổ chức lại CNKV Cần Thơ - Hậu Giang và Chi nhánh Vĩnh Long); Quyết định số 280/QĐ-HĐQL thành lập CNKV Sông Tiền (Trên cơ sở giải thể, tổ chức lại CNKV Bến Tre – Tiền Giang và Chi nhánh Trà Vinh); 02 CNKV này đi vào hoạt động kể từ ngày 01/12/2015.

Sau khi thực hiện sắp xếp, thành lập các CNKV đợt 2 năm 2015, VDB còn 44 Chi nhánh và Sở giao dịch 3, hoàn thành chỉ tiêu về tái cơ cấu tổ chức hệ thống trong giai đoạn 1 theo Chiến lược 369.

Từ 62 đơn vị đầu mối nhận bàn giao từ Quỹ HTPT, đến cuối năm 2015 VDB còn 44 đơn vị, đã giảm 18 đơn vị (29%). Có thể khẳng định rằng, việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống đơn vị trực thuộc của VDB đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu thành lập. Đây không là ý chí chủ quan mà là yêu cầu khách quan theo xu hướng chung của các định chế tài chính quốc tế có chức năng tương tự VDB; có cơ sở pháp lý (Chỉ đạo của Thường trực Chính phủ) và xuất phát từ thực tiễn triển khai, kết quả thực hiện nhiệm vụ của VDB trong gần 10 năm thành lập và đi vào hoạt động.

Nâng cao hiệu quả hoạt động Chi nhánh theo mô hình Khu vực

Bàn về mô hình tổ chức bộ máy VDB, nhất là mạng lưới Chi nhánh cũng còn nhiều luận điểm khác nhau. Một số ý kiến cho rằng VDB là một định chế tài chính có nhiều tính chất đặc thù như tên gọi, địa vị pháp lý, pháp luật điều chỉnh hoạt động; đối tượng phục vụ, nguồn lực tài chính;…do vậy cũng cần có mô hình tổ chức, mạng lưới tác nghiệp phù hợp với những đặc thù đó. Việc thu gọn đầu mối sẽ tập trung được nguồn nhân lực, thực thi chính sách có trọng tâm, trọng điểm, phát huy được hiệu quả cao. Ý kiến khác cho rằng VDB là một ngân hàng chính sách của Chính phủ nên cần có sự hiện diện trên mọi vùng miền của cả nước, đủ tầm, đủ lực đảm bảo triển thực thi chính sách tín dụng của Nhà nước có hiệu quả, mọi nơi đều được hưởng lợi như nhau từ chính sách ấy, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát triển đồng đều, rộng khắp, bù đắp được những thiếu hụt, yếu kém của địa phương do trình độ phát triển và điều kiện tự nhiên khác nhau…Rõ ràng đây là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu sâu để có những luận giải khoa học.

Theo chúng tôi, trước mắt cần tập trung tìm cách làm để nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn Ngành, nhất là các CNKV. Một số việc làm cần quan tâm đó là:

1. Đến ngày 01/12/2015 VDB đã hoàn thành mục tiêu sắp xếp, tổ chức lại bộ máy các chi nhánh và Sở giao dịch phù hợp với định hướng về phạm vi, quy mô hoạt động theo hướng hình thành các chi nhánh khu vực (Đến cuối năm 2015 toàn hệ thống còn 44 Chi nhánh, Sở Giao dịch). Cần tiếp tục nghiên cứu định hình tổ chức bộ máy trong giai đoạn tiếp theo gắn với tổng thể các đề án triển khai thực hiện Chiến lược phát triển VDB (Có ý kiến cho rằng sau mô hình CNKV, cần tiếp tục nghiên cứu để triển khai thí điểm mô hình Chi nhánh Vùng ? Vấn đề đặt ra là sẽ sắp xếp theo Tiêu chí nào? Lộ trình ra sao?...).

2. Cần tiến hành tổng kết, đánh giá toàn diện kết quả đã đạt được trong giai đoạn vừa qua về mô hình CNKV; chỉ rõ đâu là kết quả, đâu là hệ quả, tồn tại, vướng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm, nhất là cần lý giải thật rõ cơ sở khách quan của việc hình thành CNKV/Chi nhánh Vùng.

3. Nghiên cứu cơ cấu lại số lượng phòng nghiệp vụ ở Chi nhánh, nhất là CNKV cho phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu trước mắt và quan trọng nhất của VDB là đảm bảo tăng trưởng tín dụng, đi liền với an toàn, hiệu quả. Do vậy, phải chăng cần tăng cường đội ngũ thực hiện nhiệm vụ quảng bá chính sách và tìm kiếm khách hàng ? Riêng CNKV/Chi nhánh Vùng, trong cơ cấu bộ máy tác nghiệp lại cần chú trọng nhiều hơn đến lực lượng CBVC làm công tác thẩm định: Đủ về số lượng, tinh về chất lượng để làm nồng cốt trong việc tìm kiến dự án, khoản vay và nên chăng hình thành phòng Thẩm định để đảm đương nhiệm vụ này?

4. Để đảm bảo CNKV triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ trong điều kiện địa bàn rộng, vừa tập trung, vừa phân tán thì việc xây dựng Quy chế làm việc, Quy chế phối hợp tác nghiệp; quy định phân công, phân cấp thật cụ thể, rõ ràng sát với thực tiễn nhằm đảm bảo triển khai điều hành công việc nhanh chóng, thông suốt; quản lý chặt, nắm bắt kịp thời diễn biến tình hình; kết quả cao, chi phí thấp; mối quan hệ phối hợp trên dưới, ngang dọc đảm bảo tính chặt chẽ nhưng phải đơn giản, hiệu quả...là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thấu đáo, đồng bộ, thống nhất.

5. Một trong những yêu cầu phải hình thành CNKV/ Chi nhánh Vùng đó là giảm đầu mối, giảm tầng nấc trung gian; tăng hiệu lực quản trị điều hành, nâng cao hiệu quả hoạt động. Do vậy, cần chú trọng làm rõ những vấn đề như: (i) Phạm vi phân cấp cho PGD? (Đủ rộng, đúng tầm nhưng không “khoán trắng” ?); (ii) Quy mô biên chế phù hợp ? (Đủ người, chính danh, rõ việc); (iii) Củng cố, nâng chất đội ngũ ? (Sắp xếp tổ chức, bộ máy phải đi liền với việc rà soát, đánh giá CBVC thực chất dựa trên kiến thức, năng lực tổ chức thực hiện, giải quyết công việc gắn với vấn đề bức thiết đang đặt ra đối với đơn vị, với Ngành, thông qua kiểm tra sát hạch theo nguyên tắc giữ chức vụ càng cao, càng quan trọng thì càng cần được sát hạch kỹ càng, nghiêm túc). (iv) Xây dựng kế hoạch tinh giảm biên chế đi kèm chính sách cán bộ thỏa đáng.

6. Về hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công việc: Sau tái cấu trúc mạng lưới, cơ sở vật chất phục vụ công việc cũng cần điều chỉnh phù hợp. Cần điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trụ sở, đi kèm theo đó là kế hoạch chuyển đổi công năng; chuyển giao, chuyển nhượng, thanh lý tài sản,...nhằm tiết kiệm chi phí vận hành, chi phí duy tu, bảo trì; khai thác hợp lý tạo nguồn thu, góp phần lành mạnh hóa hoạt động tài chính toàn hệ thống.

 Thiết nghĩ, sắp xếp, tổ chức bộ máy - nhất là việc triển khai mạnh mẽ mô hình CNKV/ Chi nhánh Vùng - gắn tái cơ cấu hoạt động trong tiến trình phát triển VDB là một yêu cầu thực tiễn mang tính khách quan. Quá trình thực thi nhiệm vụ này có nhiều nội dung cần được nghiên cứu, lý giải và triển khai đồng bộ mới đảm bảo hiệu quả thực chất. Những vấn đề được đề cập trên đây (chưa là toàn diện, mang tính trao đổi) có thể xem là một phần của những việc cần chú trọng, hướng đến mục tiêu chung./.

--

Ghi chú: (1) Chuyên đề số 6 - Tài liệu phục vụ Hội nghị Giám đốc ngày 11-12/01/2009. (2) Nghị quyết số 248a ngày 02/11/2015 của HĐQL VDB. (3) Mạng lưới 44 Chi nhánh, Sở Giao dịch VDB tính tới thời điểm 01/12/2015: 02 Sở Giao dịch; 12 Chi nhánh Khu vực (Bắc Kạn –Thái Nguyên; Bình Dương - Bình Phước; Cần Thơ; Đà Nẵng - Quảng Nam; Đăk Lăk - Đăk Nông; Đồng Tháp – An Giang; Hải Dương – Hưng Yên; Nam Định – Hà Nam; Khánh Hòa - Ninh Thuận; Minh Hải; Sông Tiền; Thừa Thiên Huế - Quảng Trị) và 30 Chi nhánh tỉnh thành phố trực thuộc TW (Bắc Giang; Bà Rịa – Vũng Tàu; Bình Định; Bình Thuận; Cao Bằng; Điện Biên; Đồng Nai; Gia Lai; Hải Phòng; Hà Giang; Hà Tĩnh; Kon Tum; Kiên Giang; Lai Châu; Lạng Sơn; Lào Cai; Lâm Đồng; Ninh Bình; Nghệ An; Phú Yên; Phú Thọ; Quảng Bình; Quảng Ninh; Quảng Ngãi; Sóc Trăng; Sơn La; Tuyên Quang; Thái Bình; Thanh Hóa; Yên Bái).

Kỳ 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của VDB – thách thức và giải pháp

Dấu ấn của năm khởi đầu

Năm 2016, được xem là năm khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới của VDB, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ VDB lần thứ II – Nhiệm kỳ 2015 -2020. Ngay từ đầu năm, Tổng Giám đốc VDB đã ban hành công văn số 389/NHPT-CĐKH về mục tiêu và giải pháp điều hành thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết phiên họp lần thứ 45 Hội đồng quản lý VDB (Nay là Hội đồng Quản trị). Theo đó, có 18 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cùng với 96 biện pháp cụ thể được đề ra gắn với 06 lĩnh vực nghiệp vụ và 12 hoạt động hỗ trợ tác nghiệp.

Có thể nói, VDB bước vào năm kế hoạch đầu tiên của nhiệm kỳ 2015 - 2020 với khó khăn chồng chất, do nhiều nguyên khách quan (Mô hình VDB được định dạng nhưng chưa định hình; cơ chế chính sách được nhìn nhận lạc hậu so với yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước nhưng chậm được nghiên cứu sửa đổi; nguồn lực tài chính chưa tương xứng với với yêu cầu nhiệm vụ được giao;...). Nhưng chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan (Thu nhập của người lao động giảm sút; những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động cụ thể của một số đơn vị trong hệ thống đã tác động đến tâm lý của một bộ phận không nhỏ cán bộ viên chức, người lao động (CBVC), dẫn đến tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm, cầu toàn trong thực hiện nhiệm vụ; công tác tổ chức điều hành thực hiện nhiệm vụ của một số đơn vị, trong một số thời điểm có biểu hiện thiếu quyết liệt, không triệt để, thiếu trách nhiệm, đùn đẩy, gây sút giảm niềm tin trong nội bộ;...). Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ rất nặng nề, bộn bề với nhiều công việc lớn, nhiều nội dung quan trọng phải tập trung thực hiện theo Điều lệ tổ chức và hoạt động VDB ban hành theo Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Đánh giá tiến độ và tình hình thực hiện nhiệm vụ của VDB qua kết luận của Chủ tịch hội đồng quản trị (HĐQT) VDB tại các cuộc giao ban định kỳ, cho thấy: “Toàn hệ thống đã có nỗ lực trong tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ; một số chỉ tiêu, nhiệm vụ có chuyển biến tích cực so với cùng kỳ năm trước...Tuy nhiên, kết quả chung toàn hệ thống vẫn đạt thấp so với kế hoạch năm...; các hệ số an toàn hoạt động của VDB yếu, đặc biệt là tình hình tài chính của VDB đang gặp rất nhiều khó khăn” (2). Và “Hoạt động của hệ thống thể hiện rõ sự đình trệ, nhiều công việc hoàn thành chậm so với yêu cầu...” (3). Thực tiễn tình hình đòi hỏi phải từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống trong bối cảnh hiện tại, cần tập trung giải quyết 03 vấn đề quan trọng: (i) Xác định rõ thực trạng tài sản, cân đối và sử dụng vốn, tài chính, chất lượng hoạt động; rà soát đánh giá lại nguồn lực và việc phân bổ các nguồn lực để cơ cấu lại phù hợp, tăng hiệu quả. (ii) Thay đổi tư duy và phương pháp làm việc, hành động; tái cơ cấu toàn diện hoạt động VDB theo mô hình và chuẩn mực chung của tổ chức tín dụng; tổ chức lại bộ máy, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quản trị điều hành; đào tạo, sắp xếp lại cán bộ. Từng bước xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, chuyên nghiệp, hiệu quả. (iii) Thật sự coi trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động, nhằm đáp ứng được yêu cầu phục vụ quản trị điều hành nội bộ và hướng tới cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng; đồng thời giảm thiểu rủi ro cho mọi hoạt động.

Kết quả thực nhiệm vụ năm đầu tổ chức thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội II của VDB chỉ đạt mức khiêm tốn so với yêu cầu được đặt ra, trong đó quan trọng nhất là khung pháp lý chưa thể hoàn thiện kịp theo lộ trình; chỉ tiêu tăng trưởng, nợ xấu, cân đối tài chính,...chưa thể đạt mục tiêu chung. Tuy nhiên, đánh giá tổng quát thì VDB đã có chuyển biến rõ nét về tư duy quản trị hệ thống, thiết lập mục tiêu và quyết định các vấn đề lớn; công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ đã có sự tập trung, quyết liệt phù hợp, tạo được dấu ấn ban đầu quan trọng trong hoạt động: (i) Kiện toàn một bước về tổ chức bộ máy, trong đó quan trọng nhất là Hội đồng quản trị chính thức thay thế vai trò của Hội đồng quản lý, đảm nhiệm vai trò quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của VDB (Ban hành được Quy chế hoạt động; phân công cụ thể các thành viên). Thành lập Hội đồng xử lý rủi ro; điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của một số đơn vị thuộc Trụ sở chính. Cùng với đó là việc rà soát, đánh giá lại mô hình tổ chức bộ máy; chủ động nghiên cứu xây dựng, ban hành các văn bản quy định quản trị nội bộ (01 Nghị quyết, 07 Quy chế; 04 Quy định) được đặt ra một cách nghiêm túc, với tinh thần khẩn trương, cầu thị. (ii) Những khó khăn, yếu kém trong hoạt động của VDB được nhìn nhận với thái độ nghiêm túc, rà soát đánh giá đúng thực trạng, mạnh dạn báo cáo đề xuất cấp có thẩm quyền các giải pháp hỗ trợ xử lý, tháo gỡ vướng mắc. (iii) Chú trọng thực chất việc nâng cao chất lượng đội ngũ; nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt (Tập trung bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý; Quy định việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại phải có chương trình hành động cụ thể, cam kết mục tiêu rõ ràng); động viên, khuyến khích CBVC suy nghĩ tích cực, hành động có trách nhiệm. (iv) Quan tâm việc đổi mới phương pháp, phương tiện và môi trường làm việc theo hướng khoa học, công khai, minh bạch, dân chủ (Chủ động gỡ bỏ những quy định nội bộ không còn phù hợp; tích cực tìm kiếm biện pháp đảm bảo việc làm, giảm thiểu khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần CBVC;...).

Thách thức, giải pháp

Nghị quyết số 394/NQ-HĐQT của HĐQT VDB báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt với các chỉ tiêu chính: (1) Cho vay lại vốn nước ngoài trên 09 ngàn tỷ đồng; (2) Tín dụng đầu tư tăng trưởng 03%, trong đó vốn dành cho chương trình kiên cố hóa kênh mương 03 ngàn tỷ đồng; (3) Tín dụng xuất khẩu đạt mức dư nợ bình quân 07 ngàn tỷ đồng; (4) Huy động vốn trên 47 ngàn tỷ đồng, trong đó trái phiếu Chính phủ bảo lãnh 30 ngàn tỷ đồng.

Với vai trò ngân hàng chính sách của Chính phủ, các chỉ tiêu nêu trên khá khiêm tốn so với mục tiêu điều hành phát triển kinh tế - xã hội đất nước mà Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 vừa qua (4). Riêng chỉ tiêu tăng trưởng TDĐT rất thấp so mục tiêu Chiến lược phát triển VDB (bình quân 10%/năm). So với mức phấn đấu, chỉ tiêu huy động vốn tăng 20%, các nghiệp vụ còn lại chỉ ở mức từ 70% đến 75%. Song, trong bối cảnh VDB đang chuyển đổi mô hình hoạt động, tái cơ cấu toàn diện theo Chiến lược phát triển gắn với sự vận động phát triển chung của đất nước thì đây là mục tiêu được cân nhắc, có “lượng sức” để thích ứng điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn.

Trong bối cảnh đó, để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, có không ít thách thức đòi hỏi CBVC toàn hệ thống phải đồng lòng để vượt qua, theo chúng tôi có 03 thách thức lớn:

Thứ nhất, nguồn lực (kể cả nhân tố con người) có hạn nhưng VDB phải đảm đương nhiệm vụ nặng nề. Riêng áp lực về nguồn vốn là rất lớn, vừa đáp ứng nhu cầu các hợp đồng tín dụng đã/sẽ ký kết; vừa đảm bảo an toàn tuyệt đối trong việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ huy động đến hạn, có dự phòng thực hiện nhiệm vụ mới; không làm gia tăng áp lực đối với ngân sách nhà nước (NSNN), kể cả bảo lãnh của Chính phủ.

Thứ hai, tăng trưởng tín dụng trong điều kiện dư nợ tốt có xu hướng giảm nhanh; nợ xấu tiềm ẩn yếu tố gia tăng hoặc chưa thể kéo giảm; chính sách tín dụng nhà nước dự kiến sửa đổi theo hướng thu gọn đối tượng hưởng thụ, siết chặt điều kiện phục vụ.

Thứ ba, khung pháp lý hoạt động nói chung, kể cả hệ thống cơ chế quản trị nội bộ cần có thêm thời gian để hoàn thiện, đồng bộ hóa và đi vào thực tiễn.  

Để vượt qua thách thức, từng bước hoàn thành nhiệm vụ trong chương trình hành động theo định hướng được nêu trong Nghị quyết Hội đồng Quản trị, thiết nghĩ VDB cần quan tâm xử lý có hiệu quả một số vấn đề:

(1) An toàn cân đối nguồn vốn: Chú trọng đúng mực tính an toàn, hiệu quả trong huy động và sử dụng vốn; đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trên cơ sở phù hợp với khả năng/năng lực quản trị điều hành nội bộ. Hoạt động ngân hàng chính sách không thể tách rời mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hỗ trợ tăng trưởng nhưng không thể/không để gia tăng áp lực cho NSNN(5). Tích cực thực hiện thoái vốn khỏi hoạt động ngoài ngành theo đúng chủ trương của Đảng, Chính phủ (6), tập trung nguồn lực/nguồn vốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính. Có cơ chế khuyến khích hợp lý để phát huy năng lực huy động vốn của các đơn vị trực thuộc. Quyết liệt thực hiện các biện pháp đảm bảo thu đủ nợ đối với các dự án, khoản vay (đến hạn, quá hạn, tận thu nợ đã chuyển ngoại bảng) nhằm cải thiện chất lượng tín dụng, đồng thời tạo nguồn và mở rộng dư địa cho vay hỗ trợ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.

(2) Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng: Khẩn trương rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, sửa đổi những quy định bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn triển phát triển đất nước. Tiếp tục kiến nghị, đề xuất cơ chế xử lý triệt để những vấn đề tồn tại trong hoạt động VDB, nhất là vấn đề quản lý phân loại nợ, xử lý nợ xấu gắn với tính chất đặc thù trong tổ chức thực thi chính sách tín dụng nhà nước. Chủ động rà soát, hoàn thiện quy chế, quy định nội bộ về công tác thẩm định theo hướng vừa đảm bảo an toàn, chặt chẽ đúng pháp luật, vừa thông thoáng phù hợp với chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hướng về khách hàng, hỗ trợ khởi nghiệp. Có cơ chế phân công, phân cấp phù hợp, tăng trách nhiệm của mỗi cấp phán quyết tín dụng. Quan tâm tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tìm kiếm khách hàng, thẩm định dự án có đạo đức, kiến thức, năng lực, giàu tính thực tiễn, kỹ năng giao tiếp tốt, tác phong làm việc chuyên nghiệp; phối hợp nhuần nhuyễn, có trách nhiệm và niềm tin giữa trụ sở chính với cơ sở...

Với tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí, suy nghĩ tích cực, hành động có trách nhiệm, năng động “tìm cơ trong nguy” VDB nhất định sẽ từng bước vượt qua khó khăn, thách thức hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, nhất là giai đoạn đầu tạo tiền đề thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội II Đảng bộ VDB; hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược 369; thiết thực góp phần đưa các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống./.

Lê Ngọc Châu - Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Khu vực Sông Tiền

--

Ghi chú: (1) Theo Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013.

(2) Thông báo số 320/TB-HĐQT ngày 28/7/2016, kết luận của Chủ tịch HĐQT VDB tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2016.

(3) Thông báo số 383/TB-HĐQT ngày 14/10/2016, kết luận của Chủ tịch HĐQT VDB tại cuộc họp giao ban Trụ sở chính tháng 10/2016.

(4) Nghị quyết 23/2016/QH14 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, Quốc hội thống nhất 13 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó tăng trưởng kinh tế 6,7%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 31,5% GĐP.

(5) Theo Nghị quyết số 27/2016/QH14 về Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017: Tổng chi cân đối NSNN khoảng 1,4 triệu tỷ đồng. Quốc hội giao Chính phủ “Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ; phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước đúng quy định của pháp luật”.

(6) Cả nước có gần 100 Tập đoàn, Tổng Công ty phải thoái vốn Nhà nước từ 70% đến 100%.

 

.
.
.
.