.
.

Bài dự thi giải Búa liềm vàng lần thứ IV - năm 2019:

Đảng viên làm gương và phát huy phương thức thanh toán không dùng tiền mặt góp phần chống tham nhũng, rửa tiền

Thứ Năm, 10/10/2019|20:53

Thanh toán không tiền mặt không chỉ giúp giảm chi phí xã hội và đem lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp mà còn góp phần phòng chống tham nhũng, rửa tiền và các tội phạm kinh tế.

Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng phát triển, thanh toán không dùng tiền mặt đã và đang phát huy tốt hơn các chức năng riêng có. Ưu điểm của việc thanh toán không sử dụng tiền mặt là rất rõ ràng, nhất là khi thanh toán các khoản tiền lớn, vì nó góp phần chống nạn rửa tiền, chống các vụ mua bán trái phép cũng như dễ dàng hơn trong quản lý tài sản và chống tham nhũng. 

Nhiều chuyên gia cũng cho rằng nền kinh tế không tiền mặt sẽ giúp Nhà nước quản lý chặt chẽ các giao dịch kinh tế để đảm bảo xác định đúng nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, giảm thiểu hành vi bán hàng nhưng không kê khai thuế. Kinh tế không dùng tiền mặt còn góp phần giảm thiểu các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực quản lý thuế. Thanh toán không dùng tiền mặt đảm bảo tính công khai, ta thấy 1 quốc gia sử dụng tiền mặt nhiều thì nó bị ẩn, nó khuất tất rất nhiều. Ví dụ hiện nay các nước trên thế giới, đặc biệt Âu Mỹ, thanh toán không dùng tiền mặt chiếm trên 90%, thanh toán dùng tiền mặt chiếm 7%, hoạt động của nó hết sức công khai, minh bạch, rõ ràng không thể ẩn giấu, khuất tất đồng thời chống việc rửa tiền, chống việc thuế thu nhập cá nhân. Mọi tài khoản thông báo qua tiền mặt đều rất rõ, đối với nhà nước tạo sự minh bạch, hiệu quả chống rửa tiền, thất thu thuế.

Thanh toán không dùng tiền mặt giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng; thúc đẩy sản xuất và dịch vụ cũng như giúp Nhà nước thực hiện có hiệu quả chính sách tài chính trên khắp cả nước với mọi đối tượng người dân.

Tại những doanh nghiệp có hệ thống cửa hàng với lưu lượng thanh toán đông, giá trị món hàng thanh toán cao thì việc tăng khuyến mãi cho khách hàng trả tiền không dùng tiền mặt sẽ giải được bài toán tiết kiệm chi phí nhân công và giảm áp lực tiền mặt cho doanh nghiệp. Hình thức thanh toán qua thẻ giúp cho cửa hàng giảm nhân công hơn so với thanh toán qua tiền mặt, nếu bình thường thì nhân viên phải đếm, còn nếu chỉ cà thẻ thì sẽ nhanh và thuận lợi hơn.

Việc thanh toán không dùng tiền mặt đã mang lại nhiều lợi ích như thu hút các khoản tiền nhàn rỗi, tăng nguồn vốn đầu tư, mở rộng sản xuất. Hơn nữa, tăng khả năng kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế, tăng cường công tác phòng, chống tội phạm.

Ngoài sự tiện lợi, nhanh chóng, có thể thực hiện bất cứ lúc nào thì thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp minh bạch hóa thông tin trong nền kinh tế. Khi đã minh bạch được những vấn đề như vậy thì chắc chắn phải có sự can thiệp của ứng dụng công nghệ thông tin trong việc công bố công khai các giao dịch.

“Khi đã có “bàn tay” của công nghệ thông tin kết hợp với cơ chế chính sách của Nhà nước trong quản lý các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì những giao dịch của các chủ thể là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, doanh nghiệp… sẽ được “thâu tóm”, quản lý chặt chẽ hơn. Từ đó hạn chế được vấn nạn tham nhũng, hối lộ”.

Lợi ích của thanh toán không tiền mặt đã quá rõ ràng, không chỉ giảm chi phí và đem lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp mà thanh toán không dùng tiền mặt còn thúc đẩy minh bạch, công khai, phòng chống tham nhũng, rửa tiền, chống tội phạm kinh tế. Chính vì thế, những năm gần đây, Chính phủ rất quan tâm chỉ đạo thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán sử dụng tiền mặt không chỉ làm thất thoát, đẩy cao chi phí cho toàn xã hội mà còn tạo điều kiện cho môi trường kinh tế ngầm, buôn gian bán lận, trốn thuế...

Ở các nước, người ta xem các giao dịch số tiền lớn bằng tiền mặt đương nhiên hiểu là không minh bạch, không sạch sẽ, gắn với hoạt động kinh tế "ngầm". Chúng ta có Luật thuế thu nhập cá nhân nhưng vì dòng tiền không qua ngân hàng, tự do được giao dịch bằng tiền mặt dẫn đến khó kiểm soát thu nhập thực.

Ở các nước, những công chức, cá nhân có việc làm đều phải mở tài khoản và nhà nước quản lý mã số thuế cá nhân đi kèm, tiền ra vào tài khoản đều được theo dõi, các hoạt động giao dịch mua bán lớn cũng vậy.

Minh bạch hóa các hoạt động thanh toán trong nền kinh tế và thu nhập cá nhân trong xã hội là biện pháp để giải quyết tham nhũng, cảnh báo được nguồn tiền thu nhập không rõ ràng của nhiều người, chống rửa tiền, trốn thuế và các hoạt động phi pháp khác. Khi tất cả khoản thu trả qua ngân hàng, chúng ta cũng dẹp bỏ được câu chuyện khó lý giải trước giờ tại sao lương công chức vài triệu đồng/tháng nhưng lại sắm điện thoại xịn, xe xịn, nhà to...

Còn dùng tiền mặt, khó trị tham nhũng. Không thấy tiền, không phát sinh lòng tham. Người Việt Nam có thói quen thanh toán bằng tiền mặt. Kinh tế cá thể, hộ kinh doanh chiếm hơn 32% thành phần kinh tế, ngay cả doanh nghiệp cũng chuộng thanh toán bằng tiền mặt, không có hóa đơn. Với thực trạng xã hội như hiện nay rất nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam cho biết họ e ngại chi phí gầm bàn, hệ thống kế toán hai sổ của doanh nghiệp Việt Nam. Những nhà tài chính đều lý giải nạn tham nhũng từ các nước đang phát triển xuất phát từ nguyên nhân thói quen dùng tiền mặt.

Ở các nước, người ta nói đến những phi vụ giao dịch triệu USD, tỉ USD nhưng không hề cầm một đồng tiền nào. Tất cả đều qua ngân hàng, tồn tại là những con số nên cũng khó có thất thoát, ăn bớt, lại quả... Nhưng ở Việt Nam, mua nhà cả tỉ bạc người ta cũng cầm tiền đưa cho nhau. Chính thói quen giao dịch tiền mặt, tâm lý thích đếm tiền đã tạo điều kiện cho nạn tham nhũng hoành hành.

Một khi tất cả dòng tiền đều được quản lý qua ngân hàng, thu nhập ra vào của một người dân thể hiện qua tài khoản thì nhà chức trách sẽ lý giải được nguồn gốc số tiền của công dân, quan chức. Sử dụng tiền mặt một cách vô tư như hiện nay sẽ không thể kiểm soát được nguồn gốc của đồng tiền. Đây là nguyên nhân gây ra tham nhũng, hối lộ, rửa tiền.

Tất cả các giao dịch sẽ được rõ ràng khi thanh toán qua ngân hàng. Thanh toán qua ngân hàng sẽ kiểm soát được thu nhập, nguồn gốc của đồng tiền. Qua đó góp phần ngăn chặn được nạn tham nhũng, rửa tiền.

Các giải pháp và chính sách thúc đẩy thanh toán không tiền mặt

Thay đổi thói quen trong thanh toán từ tiền mặt sang phi tiền mặt là một quá trình không đơn giản khi tiền mặt đang phổ biến trong các giao dịch mua bán hiện nay. Ðể thay đổi được thói quen đó, cần phải có những phương thức thanh toán mới thích hợp, thuận tiện hơn để người dân, doanh nghiệp lựa chọn. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công nghệ số đang ngày càng được chú trọng. Bên cạnh việc hoàn thiện những sản phẩm, dịch vụ thanh toán hiện có, hầu hết các ngân hàng đã và đang nghiên cứu triển khai thêm các dịch vụ thanh toán mới, hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông.

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt “Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020” với mục tiêu đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%. Để đạt mục tiêu đó, cần thúc đẩy thanh toán điện tử trong thương mại điện tử, thực hiện mục tiêu của Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2016 - 2020 (100% các siêu thị, trung tâm mua sắm và cơ sở phân phối hiện đại có thiết bị chấp nhận thẻ và cho phép người tiêu dùng thanh toán không dùng tiền mặt khi mua hàng; 70% các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, viễn thông và truyền thông chấp nhận thanh toán hóa đơn của các cá nhân, hộ gia đình qua các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; 50% cá nhân, hộ gia đình ở các thành phố lớn sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong mua sắm, tiêu dùng).

Tập trung phát triển một số phương tiện và hình thức thanh toán mới, hiện đại, phục vụ cho khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện (Financial Inclusion); tăng mạnh số người dân được tiếp cận các dịch vụ thanh toán, nâng tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng lên mức ít nhất 70% vào cuối năm 2020.

Nghiên cứu triển khai một số biện pháp hành chính kết hợp với các biện pháp khuyến khích về lợi ích kinh tế nhằm phát triển thanh toán điện tử. Cụ thể, nghiên cứu, ban hành một số cơ chế, chính sách để khuyến khích thanh toán điện tử trong việc: Thu, nộp thuế; giao dịch thương mại điện tử; thu phí, lệ phí, thủ tục hành chính; thanh toán cước, phí cho các dịch vụ thường xuyên, định kỳ như: Điện, nước, điện thoại, Internet, truyền hình cáp; triển khai ứng dụng công nghệ thanh toán điện tử mới; khuyến khích các cơ sở bán lẻ hàng hóa, dịch vụ chấp nhận và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử và hỗ trợ khách hàng thực hiện các giao dịch thanh toán điện tử trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ, không phân biệt giữa thanh toán bằng tiền mặt với các phương tiện thanh toán điện tử.

Ban hành các cơ chế, chính sách thích hợp về phí dịch vụ thanh toán, để khuyến khích tổ chức, cá nhân thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt; quy định mức phí thanh toán chuyển khoản và mức phí nộp, rút tiền mặt tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo hướng tăng mức phí giao dịch tiền mặt và giảm phí thanh toán không dùng tiền mặt; giảm mức phí áp dụng cho các giao dịch thanh toán liên ngân hàng; quy định về cách thức tính phí, cơ cấu phân bổ phí của các tổ chức vận hành các hệ thống thanh toán, đảm bảo mức phí hợp lý, tạo lập thị trường cạnh tranh bình đẳng, tránh độc quyền.  

Nghiên cứu, ban hành một số cơ chế, chính sách, nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với việc tăng cường kiểm soát thanh toán, phát hành hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ, chống thất thu thuế; ban hành văn bản quy định về tính pháp lý của chứng từ điện tử, hướng dẫn sử dụng, lưu trữ chứng từ điện tử. Ngoài ra, cần rà soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản quy định về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán; xem xét bổ sung quy định các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh phải mở tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện các giao dịch thanh toán; ban hành quy định giao dịch mua bán bất động sản và những tài sản có giá trị lớn (như ô tô, xe máy, tàu thuyền,…) thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.

Cần phải xây dựng, phát triển các hệ thống và dịch vụ thanh toán bán lẻ như: Tăng cường dịch vụ thanh toán thẻ; xây dựng, phát triển Hệ thống bù trừ điện tử tự động cho các giao dịch thanh toán bán lẻ (ACH); hoàn thiện hệ thống thanh toán nội bộ của các ngân hàng; phát triển thanh toán điện tử phục vụ thương mại điện tử; phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực nông thôn. Trong đó, về tăng cường dịch vụ thanh toán thẻ, tiếp tục phát triển (cả về số lượng và chất lượng) kết hợp với sắp xếp hợp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả mạng lưới POS; phát triển mạng lưới POS dùng chung, thanh toán POS trên thiết bị di động (mPOS); tăng cường chấp nhận thanh toán thẻ trong các giao dịch thanh toán trực tuyến; mở rộng ra các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học...

Nghiên cứu, áp dụng các công nghệ thanh toán hiện đại mới với chi phí hợp lý, tốc độ thanh toán nhanh, đơn giản, tiện dụng và chất lượng cao; khuyến khích phát triển các loại thẻ đa dụng, đa năng, thẻ phi vật lý, thẻ không tiếp xúc (để thu phí cầu đường, mua xăng dầu, mua vé xe buýt, đi taxi, chi trả bảo hiểm xã hội, thu học phí...).

Đặc biệt, đẩy mạnh phát triển, ứng dụng các phương tiện và mô hình thanh toán/chuyển tiền hiện đại, dễ sử dụng và phù hợp với điều kiện ở nông thôn (thanh toán qua điện thoại di động, thiết bị kỹ thuật số…), nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và cả đối với những đối tượng chưa có tài khoản ngân hàng, trên cơ sở sử dụng mạng lưới sẵn có của các tổ chức tín dụng, mạng lưới bưu điện, mạng lưới của các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, một số tổ chức không phải ngân hàng khác, gắn với việc xây dựng chương trình; kế hoạch triển khai thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam.

Cần phải đẩy mạnh thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ, dịch vụ hành chính công. Cụ thể, hoàn thiện, tăng cường kết nối xử lý giải pháp trao đổi thông tin dữ liệu giữa các cơ quan trong ngành Tài chính (Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan) với hệ thống ngân hàng, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu phối hợp thu ngân sách nhà nước bằng phương thức điện tử; nhất là thu, nộp thuế điện tử để hỗ trợ công tác quản lý, thu thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ, doanh nghiệp và người dân thực hiện đa dạng, linh hoạt các dịch vụ thanh toán điện tử trong việc thu, nộp thuế điện tử. Triển khai lắp đặt thiết bị POS, mPOS, ứng dụng phương thức thanh toán điện tử tiên tiến đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp công để thực hiện việc thu phí, lệ phí các thủ tục hành chính, dịch vụ công, y tế, giáo dục, giao thông và các dịch vụ công khác; phát triển và ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán điện tử phục vụ chi tiêu công vụ của các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.

Tăng tỷ lệ chi trả trợ cấp xã hội, lương hưu thông qua các phương tiện thanh toán điện tử, tài khoản thanh toán cho các đối tượng thụ hưởng, kết hợp với mở rộng các điểm tiếp cận tiền mặt (bưu điện, đại lý) và các hình thức thanh toán mới, hiện đại, tiện lợi, có chi phí hợp lý. Tiếp tục mở rộng triển khai việc trả lương, thu nhập qua tài khoản; có các biện pháp vận động, khuyến khích để cán bộ, công chức, người lao động tăng cường sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt thông qua tài khoản (thực hiện chuyển khoản trực tiếp trên máy ATM, sử dụng thanh toán qua POS, sử dụng các dịch vụ thanh toán hiện đại khác).…

Người Đảng viên làm gương và khuyến khích khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt:

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng: tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính; nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về tài chính của người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính… 100% trường học, bệnh viện, công ty điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, các công ty viễn thông, bưu chính trên địa bàn đô thị phải phối hợp ngân hàng để thu học phí, viện phí, tiền điện bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, ưu tiên giải pháp thanh toán trên thiết bị di động, thanh toán qua thiết bị chấp nhận thẻ.

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng và khuyến khích khách hàng: nạp tiền mặt vào ví điện tử thông qua tài khoản thanh toán ngân hàng; xác định hạn mức số tiền nạp ví điện tử và giá trị giao dịch hằng tháng, giới thiệu trung gian thanh toán áp dụng tiêu chuẩn cơ sở QR Code.

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng: tự mình sử dụng và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với các dịch vụ thiết yếu như tiền điện, nước, học phí, cước viễn thông, truyền hình…

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng: đề xuất với cấp cao hoặc ban, ngành tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển mạnh các phương thức thanh toán điện tử như ngân hàng trực tuyến, thanh toán qua Internet, điện thoại di động, thẻ thanh toán không tiếp xúc và chấp nhận thanh toán không tiếp xúc, thanh toán không tiếp xúc trên di động, thanh toán trường gần (NFC) trên di động, thanh toán dựa trên nền tảng công nghệ đám mây, thanh toán số và thương mại dựa trên thiết bị điện tử.

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng chủ động tiếp cận khách hàng, trước hết là phân khúc khách hàng trong khu vực nhà nước và đối tượng quản lý của phân khúc khách hàng này để triển khai thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng tiếp cận và phát triển dịch vụ thẻ đối với khách hàng ở khu vực nông thôn. Từng bước phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại để phục vụ thanh toán tiền điện, nước, cước điện thoại, viễn thông, truyền hình cáp, chi trả lương hưu, trợ cấp xã hội và các khoản thu khác như học phí, thuế nông nghiệp, thủy lợi phí...

Người đảng viên, cán bộ ngân hàng tăng cường đào tạo cán bộ, nhân viên của phòng, Chi nhánh để có kiến thức, kỹ năng hướng dẫn khách hàng nắm bắt và sử dụng hiệu quả các dịch vụ, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt .

Chi bộ Chi nhánh Tân Bình

Đảng ủy Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

 

.
Các bài viết khác:
.
.
.