.
.

Bài dự thi giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2021

Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trong thời kỳ 4.0 từ lý luận đến thực tiễn mới

Thứ Tư, 03/11/2021|11:13

Nghị quyết của Đảng là những định hướng phát triển đất nước, là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, thể hiện ý chí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để những định hướng đó được triển khai sâu rộng và mang ý nghĩa thực tiễn, sau khi nghị quyết được ban hành, việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết và tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết có thể coi là 2 khâu quan trọng, đóng vai trò quyết định để hiện thực hóa mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng. Trong đó, tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết là tiền đề cho sự thành công trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Đây cần được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân, đảm bảo nghị quyết đi vào cuộc sống.

Nguyên vẹn giá trị tư tưởng của Bác

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:

- “Đại hội là nguồn sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội…Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn. Nhưng chúng ta nhất định vượt qua mọi khó khăn. Vì thế toàn thể cán bộ đảng viên ta đoàn kết chặt chẽ quyết tâm biến Nghị quyết của Đại hội thành ý chí của toàn dân để giành thắng lợi mới”.

- “Khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn, để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi khó khăn”.

- “Trung ương nhất trí về đường lối, chính sách, chỉ tiêu, biện pháp… Chúng ta phải biến sự nhất trí ấy thành quyết tâm. Chúng ta phải truyền đạt sự nhất trí và quyết tâm của Trung ương đến tận mỗi cán bộ, mỗi xã viên, làm cho toàn Đảng, toàn dân biến Nghị quyết của Trung ương thành một cao trào thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

- “Chúng ta phải biến nghị quyết của Trung ương thành sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Muốn vậy, phải làm cho mọi người tin là ta nhất định thắng…; phải làm cho mọi người phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ gian khổ, đem hết sức của mình để làm tốt nhiệm vụ”.

Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết có ý nghĩa hết sức thiết thực để đưa các Nghị quyết của Đảng sớm đi vào cuộc sống.

Hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuỗi liên hoàn, có hệ thống chặt chẽ, thể hiện ý chí và hành động để đạt được mục tiêu của cách mạng. Sau khi Đảng ra nghị quyết lãnh đạo, để biến những nội dung trong nghị quyết trở thành hiện thực, thì phải tổ chức thực hiện nghị quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một hệ chuẩn, đó là một chuỗi liên hoàn với hệ thống chặt chẽ trong quy trình lãnh đạo của Đảng, gồm: (1) Xây dựng kế hoạch hoạt động của Đảng, xuất phát từ cương lĩnh, đường lối chung cả chặng dài, có tính chiến lược đến từng thời kỳ, từng nhiệm kỳ đại hội Đảng; (2) Xác định chủ đề hoặc đề án xây dựng dự thảo nghị quyết, (3) Thảo luận thật sự dân chủ các vấn đề đặt ra và quyết định bằng biểu quyết (thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng); (4) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, gồm các hoạt động: phân công trách nhiệm bộ phận hoặc cá nhân; xây dựng kế hoạch hoặc chương trình hành động để đưa nghị quyết vào cuộc sống; kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết, rút kinh nghiệm, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, đồng thời phê bình, kỷ luật những tập thể, cá nhân có khuyết điểm, điều chỉnh, bổ sung nội dung không phù hợp hoặc còn thiếu.

Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên những vấn đề cụ thể sau:

Một là, phải có kế hoạch tỉ mỉ, chắc chắn. Xây dựng kế hoạch thực hiện nghị quyết phải hết sức thiết thực, không được chủ quan, không mắc bệnh: “Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ, chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không ích lợi gì cả”.

Hai là, phải nắm chắc nội dung của nghị quyết. Phải thảo luận để quán triệt nghị quyết. Theo Người: “cách thảo luận phải thực sự dân chủ, trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến. Muốn thế, phải “phái người đến báo cáo, giải thích”; các cấp và đảng viên phải thảo luận nghị quyết cho rõ ràng, hiểu thấu ý nghĩa của nó và định cách thi hành cho đúng. Bên cạnh việc phải chuẩn bị kỹ càng, người báo cáo nghị quyết (báo cáo viên) phải truyền đạt đúng những nội dung nghị quyết để rồi vận dụng vào thực tế, tránh “nói mênh mông… chỉ một mình “ông” đại biểu, hay “bà” đại biểu nói, nói hàng hai, ba giờ đồng hồ… nói mênh mông trời đất, nói gì cũng có, nhưng chừa một điều là không nói đến những việc thiết thực cho địa phương đó, “nói không ai hiểu”.

Ba là, phải triển khai thực hiện nghị quyết một cách tích cực, khẩn trương. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần. Kết quả nặng là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi”. Người chỉ rõ: “Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khỏe. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng xong xuôi. Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp đó trở xuống là tê liệt”.

Bốn là, phải phát huy dân chủ và sáng kiến. Người nêu rõ: “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”. Sáng kiến không phải chỉ là những điều to tát, mà có khi từ những việc tưởng rất nhỏ, nhưng rất thiết thực, hiệu quả thúc đẩy phong trào cách mạng rất cao.

Năm là, phải kiểm tra quá trình thực hiện nghị quyết. Công tác kiểm soát có vai trò rất quan trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.

Hiện nay, nhiệm vụ cách mạng của nước ta đang đặt ra yêu cầu rất cao trong việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Trong văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã đưa khoa học và công nghệ lên tầm mức mới với khẳng định “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”, “Khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”. Những quan điểm này tiếp tục được tái khẳng định trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Thực tiễn cho thấy, khoa học và công nghệ đang từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam... Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và internet đã tạo nên những phương thức truyền thông xã hội mới có tính năng lan tỏa thông tin mạnh mẽ. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và sự nâng đỡ, hỗ trợ bởi những công nghệ mới, truyền thông xã hội đặc biệt là mạng xã hội sẽ ngày càng trở nên tiện ích hơn, thúc đẩy quá trình giao tiếp và kết nối cộng đồng. Sự phát triển đó vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra nhiều thách thức đối với Đảng và Nhà Nước trong việc tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Trong bối cảnh đó, tính cấp thiết của việc học tập, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng càng cần được coi trọng và phải coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lý luận chính trị, công tác tư tưởng của Đảng.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với ứng dụng thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt nguồn từ sự ra đời động cơ hơi nước - thúc đẩy cơ khí hóa quá trình sản xuất (cuối thế kỷ XVIII). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện để tạo ra nền sản xuất hàng loạt vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của điện tử và công nghệ thông tin - thúc đẩy tự động hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba còn được gọi là cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng... Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn hiện đại hóa với công nghiệp siêu dẫn, giai đoạn vi điện tử, giai đoạn tin học hóa,… Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng rõ ràng nó đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước, nhất là các nước đang phát triển, nhằm nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức lớn.

So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khác cả về tốc độ, phạm vi và chắc chắn sẽ tác động to lớn lên toàn bộ các hệ thống toàn cầu, báo trước sự chuyển hóa toàn bộ các hệ thống: sản xuất, quản lý, phân phối, tiêu dùng... Không giống các cuộc cách mạng công nghiệp trước vốn chỉ tập trung ở các quốc gia phát triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phủ khắp toàn cầu, do đó, tầm ảnh hưởng cũng rộng hơn.

Trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội, hình thành và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, xã hội số, chính phủ số… Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì nguồn lực chuyển mạnh từ nguồn lực hữu hình là các tư liệu sản xuất sang nguồn lực vô hình là tri thức của loài người, trí tuệ của con người, trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, internet vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường... Nguồn lực vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí giữ vai trò quyết định trong nền kinh tế tri thức.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành yếu tố đầu vào quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, là chìa khóa quyết định tốc độ, chất lượng phát triển của các quốc gia và nền kinh tế. Tại Việt Nam, vai trò của khoa học và công nghệ trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Nghị quyết Trung ương 6, khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW), Kết luận số 50-KL/TW của Ban Bí thư năm 2019 và nhiều văn kiện, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương khóa XII đã tái khẳng định khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng là một trong các đột phá chiến lược được nhấn mạnh tại các văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII.

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 năm 2020, chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong bài viết "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Ðại hội XIII của Ðảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới" đã nhấn mạnh quan điểm: "Thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế".

Văn kiện Đại hội XII đặt ra nhiệm vụ “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là thực tiễn rất sinh động, phong phú để tiếp tục khẳng định, bổ sung và làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ những nhiệm kỳ trước. Đến Đại hội XIII, văn kiện trình Ðại hội chứa đựng nhiều điểm mới rất phong phú, toàn diện và sâu sắc, trong đó, các quan điểm phát triển khoa học công nghệ tiếp tục được nhấn mạnh, cụ thể “Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã khẳng định sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng đối với công tác ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, khẳng định vị thế, vai trò của công nghệ thông tin trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thể hiện rõ quan điểm và sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc tích cực, chủ động tham gia cuộc cách mạng lần thứ 4, xem đây là một yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, và là một giải pháp đột phá để Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.

Nhận thức được xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó có sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin, Đảng ta đã có chủ trương ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm, như ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp, người dân; thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tiên phong thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm thống nhất, kết nối liên thông và đồng bộ. Xây dựng cơ sở dữ liệu số của Chính phủ và các cấp chính quyền, tạo điều kiện để mọi công dân có thể cập nhật thông tin cần thiết về hoạt động của bộ máy nhà nước.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, xử lý mâu thuẫn trong xã hội đang được coi là xu thế tất yếu, là phương pháp thực hành dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy được nguồn lực to lớn trong nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, giảm mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng - Dân và Dân - Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thời kỳ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết thời 4.0

Sinh thời, Bác Hồ luôn đánh giá cao vai trò của việc học tập nghị quyết của Đảng. Người cho rằng: "Cần nghiên cứu sâu để thấm nhuần tinh thần nghị quyết; nghiên cứu càng sâu thì càng thêm phấn khởi, hoàn thành nhiệm vụ càng tốt. Nhưng cán bộ thấm nhuần chưa đủ. Phải làm cho tinh thần nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân, làm cho mọi người thấy hết thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao cho mọi người vui vẻ, hăng hái làm tròn nhiệm vụ, vì khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ vượt được". 

Nhận thức tầm quan trọng đó, thời gian qua việc học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng tiếp tục được cấp ủy các cấp quan tâm, có nhiều đổi mới, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, để nghị quyết của Đảng thực sự phát huy được ý nghĩa thực tiễn, cần tiếp tục khắc phục một số hạn chế còn tồn tại trong việc học tập, quán triệt nghị quyết như: học tập mang tính hình thức, “làm lướt”, “làm cho xong”; Hình thức học tập chủ yếu dừng ở khâu báo cáo những nội dung của nghị quyết mà chưa dành thời gian để nghiên cứu, thảo luận nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp ủy; Công tác tổ chức quản lý cán bộ, đảng viên học nghị quyết chưa chặt chẽ; Tinh thần, thái độ học tập của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nghiêm túc… Bên cạnh đó chủ trương, nghị quyết của Đảng dù có đúng đắn, sát hợp nhưng nếu các cơ quan lãnh đạo, các cấp ủy, tổ chức đảng không nắm vững, hiểu sâu, không thấm nhuần, không có ý thức trách nhiệm cao, không có niềm tin, động lực trong quán triệt và tổ chức thực hiện thì nghị quyết cũng chỉ nằm trên giấy mà thôi. Nhận thức là cơ sở của hành động, chỉ có nhận thức đúng, đầy đủ, có ý chí quyết tâm cao thì nghị quyết mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, trở thành thực tiễn sinh động và đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, việc đổi mới cách thức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là vấn đề cần được lưu tâm, để thông qua học tập tạo được sự tự nhận thức, từ đó dẫn đến thấm nhuần những cơ sở khoa học, cơ sở chính trị, pháp lý, hình thành niềm tin của mỗi cán bộ, đảng viên đối với các quan điểm, chủ trương, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới.

Trong bối cảnh công nghệ phát triển như hiện nay, việc vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật có thể coi là một cách làm để đổi mới hình thức, cách thức học tập, quán triệt nghị quyết, trong đó học tập, quán triệt nghị quyết thông qua hình thức trực tuyến được xem là bước đột phá để đưa nghị quyết vào cuộc sống. Như mới đây, Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII đã được tổ chức trực tuyến toàn quốc. Lần đầu tiên, gần 1 triệu cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong cả nước được học Nghị quyết Đại hội của Đảng thông qua hình thức trực tuyến tại gần 7.500 điểm cầu trên cả nước. Lần đầu tiên, thời gian nghị quyết của Trung ương đến cơ sở chỉ diễn ra trong 2 ngày, việc mà trước kia phải mất tới cả năm. Cùng với đó, báo cáo viên quán triệt nghị quyết là các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, những người trực tiếp tham gia xây dựng văn kiện; điều này không chỉ tăng tính thuyết phục, hấp dẫn trong việc học tập, mà còn giúp cho nhận thức về các nội dung được đề cập trong nghị quyết được sâu sắc hơn.

Thực hiện số hóa, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ thông qua tổ chức các hội nghị trực tuyến là cách làm hay để đa dạng về hình thức học tập, quán triệt nghị quyết, góp phần tạo chuyển biến tích cực nhờ việc mở rộng hơn đối tượng tiếp cận, tiết kiệm được chi phí, thời gian, nhân lực. Vì vậy, hình thức tổ chức hội nghị trực tuyến phổ biến, học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết cần tiếp tục mở rộng tới tổ chức đảng các cấp. Bên cạnh đó, với điều kiện kỹ thuật và phương tiện truyền thông, truyền hình phát triển mạnh mẽ, phổ biến, tiện lợi như hiện nay, cần áp dụng hình thức tổ chức cho cán bộ, đảng viên trực tiếp theo dõi quá trình ban hành nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Nếu làm được, sẽ bớt đi hình thức phổ biến nhanh nghị quyết; đồng thời, giúp toàn thể đảng viên của Đảng nắm được ngay những nội dung mới, quan trọng của nghị quyết.

Cùng với tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, công tác tuyên truyền nghị quyết của Đảng cũng cần được tiến hành thường xuyên, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, phong phú, sinh động. Cần vận dụng nhiều hình thức, phương pháp, phương tiện tuyên truyền, áp dụng các tiến bộ công nghệ vào công tác tuyên truyền để những nội dung lớn của nghị quyết đến được với mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Một mặt, đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền bằng các phương tiện thông tin đại chúng, như báo chí, truyền hình, phát thanh, xuất bản, triển lãm, văn hóa, văn nghệ, cổ động...; mặt khác, cần đẩy mạnh tuyên truyền trên mạng xã hội, vì qua kênh này sẽ tiếp cận được lực lượng thanh niên nhanh nhất và rất hiệu quả, đồng thời không gian truyền bá nghị quyết không có giới hạn.

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, các quy định về giãn cách và hạn chế tiếp xúc theo quy định tại Chỉ thị 15, 16 của Chính phủ; Quy định 5K của Bộ Y tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và việc duy trì các chế độ trong công tác xây dựng Đảng. Đứng trước những khó khăn đó, việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền và duy trì các hoạt động Đảng có thể coi là giải pháp hàng đầu. Phương thức sinh hoạt, quán triệt nghị quyết thông qua nền tảng số cũng đáp ứng rất tốt nguyên tắc tập trung dân chủ theo Điều lệ của Đảng. Các nội dung Nghị quyết, ý kiến đóng góp của đảng viên trên nhóm trao đổi đều được công khai. Điều này giúp phát huy trí tuệ tập thể để việc hiện thực hóa các Nghị quyết, chỉ đạo của Đảng bộ, chi bộ phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, đơn vị, nhất là góp phần giúp công tác phòng, chống dịch đạt hiệu quả cao nhất. Việc áp dụng hình thức trực tuyến linh hoạt trong công tác tuyên truyền có thể coi là xu thế tất yếu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng như Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra.

Tổ chức thực hiện Nghị quyết thời 4.0

Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, nhưng nghị quyết có đi vào cuộc sống được hay không lại do việc tổ chức thực hiện nghị quyết có tốt hay không. Bởi vậy, tổ chức thực hiện nghị quyết là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó đổi mới việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng là một trong những vấn đề được Đảng ta quan tâm hiện nay.

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra”, đây là những hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện nghị quyết đã làm hạn chế vai trò, hiệu quả các nghị quyết của Đảng, làm cho một số nghị quyết không đi vào cuộc sống theo mong đợi của nhân dân, ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò, uy tín, hiệu lực lãnh đạo của Đảng; do vậy, cần phải kiên quyết khắc phục để góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trong phát biểu bế mạc Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở “Thành công của Đại hội không phải chỉ ở việc thông qua được Nghị quyết, bầu được Ban Chấp hành mới, quan trọng hơn có biến được Nghị quyết thành hiện thực sinh động hay không, có ra được của cải vật chất và văn hóa, mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân hay không đấy mới là thành công thực tế của Đại hội”. Qua đó, có thể thấy, việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII nói riêng và các nghị quyết của Đảng nói chung luôn là vấn đề được Đảng đặc biệt quan tâm để đưa các nội dung nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống.

Để đổi mới việc tổ chức thực hiện nghị quyết, phải chú trọng đổi mới việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng. Cấp ủy các cấp chủ trì xây dựng chương trình hành động hoặc kế hoạch thực hiện của địa phương, đơn vị trên cơ sở vận dụng các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết; đồng thời, phải bám sát thực tiễn cơ sở nhằm nhanh chóng đưa nghị quyết vào cuộc sống. Với những nghị quyết lớn, quan trọng và liên quan trực tiếp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch cá nhân thực hiện nghị quyết, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện quyết tâm, tinh thần đổi mới, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Việc xây dựng chương trình hành động hoặc kế hoạch thực hiện phải được quan tâm từ khâu xây dựng, thảo luận, quán triệt đến tổ chức thực hiện, kiểm tra đôn đốc; và phải hoàn thành ngay sau khi học tập, quán triệt nghị quyết. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng, nắm vững các nội dung chính, nội dung mới, nội dung trọng tâm của nghị quyết của Đảng; trên cơ sở đó, quán triệt, vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào xây dựng kế hoạch, chương trình hành động sát với thực tiễn, có tính khả thi, với các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực cụ thể; đồng thời, phân công rõ trách nhiệm và thời gian thực hiện, tránh tình trạng xây dựng chương trình, kế hoạch qua loa, sao chép, thiếu tính thực tiễn.

Quá trình triển khai thực hiện nghị quyết trong thời gian tới sẽ gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ; cơ hội sẽ nhiều nhưng thách thức cũng lớn. Vì vậy, việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết đòi hỏi cấp ủy cơ sở phải phát huy tối đa các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực lãnh đạo, quản lý; nguồn lực cán bộ; sự đầu tư của doanh nghiệp; khoa học, công nghệ… và có cơ chế gắn kết, thúc đẩy các nguồn lực tạo động lực cho sự phát triển. Nhiều công việc mới hơn, khó hơn, nhưng lại đòi hỏi giải quyết nhanh hơn, chất lượng cao hơn, trong điều kiện tổ chức, bộ máy tinh gọn hơn, biên chế ít hơn, đòi hỏi cấp ủy phải quan tâm chăm lo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các mặt hoạt động. Đồng thời, xây dựng được cơ chế phát huy dân chủ, cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào các hoạt động, tạo được sự đồng thuận, khơi dậy khát vọng vươn lên đổi mới, sáng tạo, phát huy được tối đa tài lực, trí lực, vật lực. Cùng với việc phát huy nguồn lực nội sinh là chủ yếu, quan trọng, kêu gọi đầu tư, tranh thủ ngoại lực sẽ tạo ra đột phá cho sự phát triển. Theo đó, cấp ủy cơ sở, nhất là người đứng đầu cần chủ động, sáng tạo phát huy tốt mối quan hệ, tranh thủ ngoại lực theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích của địa phương, doanh nghiệp và người dân.

Chuyển hóa những quyết sách lớn thành hiện thực sinh động trong ngành Ngân hàng

Dưới góc độ tác giả bài viết là một cán bộ ngân hàng, và với đặc thù ngành ngân hàng là một trong những ngành tiên phong trong tiến trình số hóa, ứng dụng khoa học công nghệ trong các mặt hoạt động, do đó xin được lấy dẫn chứng sâu hơn về việc quán triệt và triển khai nghị quyết thời cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cán bộ, đảng viên Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank).

Có thể nói, việc học tập, nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng trong ngành ngân hàng những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đa dạng về hình thức, đẩy mạnh tổ chức các hội nghị trực tuyến; gắn học tập với xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết cụ thể, thiết thực, đồng thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. Tại VietinBank, Đảng ủy đã tổ chức nghiên cứu học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương (khóa XI, XII và XIII) bằng hình thức tập trung và trực tuyến, thường xuyên thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên tham gia. Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết bằng hình thức trực tuyến đã tiết kiệm được thời gian, kinh phí, tạo thuận lợi trong việc cung cấp thông tin, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng bộ. Cùng với đó, việc xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai nghiên cứu, học tập nghị quyết được Đảng ủy VietinBank quán triệt tới tất cả cán bộ, đảng viên, người lao động và các tổ chức chính trị, xã hội bằng hình thức phù hợp. Mới đây, bên cạnh việc tổ chức Hội nghị trực tuyến, việc học tập, quán triệt Chỉ thị 05-CT/TW chuyên đề năm 2021 và học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã được Đảng ủy VietinBank triển khai trên hệ thống mạng xã hội nội bộ VietinBank Workplace nhằm giúp các đảng viên, người lao động trong toàn Đảng bộ được kịp thời nắm bắt nội dung để học tập, nghiên cứu. Đây là cách làm phù hợp trong bối cảnh cần tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, tránh tập trung đông người như hiện nay.

Song song với việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, Đảng ủy VietinBank đã cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương bằng các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và công tác xây dựng Đảng trong toàn Đảng bộ và toàn hệ thống. Cùng với đó, Đảng ủy chú trọng chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; quan tâm, coi trọng đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.  

Đối với việc tổ chức triển khai Chỉ thị 03-CT/TW, Chỉ thị 05-CT/TW, Kết luận 01KL/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ủy VietinBank đã có nhiều cách làm sáng tạo nhằm giúp cán bộ, đảng viên, người lao động nắm sâu, hiểu rõ các nội dung Chỉ thị và đưa việc học tập và làm theo Bác trở thành việc làm thường xuyên. Với tư duy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, Đảng ủy VietinBank đã tổ chức cuộc thi tìm hiểu “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng hình thức online với bộ 200 câu hỏi trắc nghiệm chọn đáp án đúng làm tài liệu ôn tập cho cán bộ, đảng viên, người lao động trong toàn hệ thống. Công tác truyền thông về Cuộc thi và thông báo kết quả Cuộc thi được thực hiện qua hình thức gửi mail nội bộ tới users của trên 24.000 cán bộ và được tuyên truyền trên website của VietinBank. Việc học tập Chỉ thị được triển khai theo hướng dễ nắm bắt, dễ thực hiện và được động viên, khích lệ thông qua công tác khen thưởng kịp thời đã giúp Cuộc thi thực sự trở thành một sự kiện truyền thông, tạo không khí thi đua sôi nổi tại các đơn vị, đồng thời lan tỏa những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn hệ thống VietinBank.

Bên cạnh đó, để mang lại hiệu quả thiết thực đối với công tác tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Đảng ủy VietinBank nhận thức rõ vấn đề quan trọng là phải tạo được sự tự nhận thức, từ đó dẫn đến thấm nhuần những cơ sở khoa học, cơ sở chính trị, pháp lý, hình thành niềm tin của mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động trong toàn hệ thống đối với các quan điểm, chủ trương, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Chủ trương, định hướng, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong nghị quyết phải trở thành phương châm công tác, động lực thôi thúc hành động của mỗi cán bộ, đảng viên. Để đáp ứng yêu cầu đó, các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn hệ thống VietinBank đã tổ chức quán triệt thường xuyên, có trao đổi, thảo luận, đưa nội dung học tập, quán triệt nghị quyết vào trong các kỳ sinh hoạt chuyên đề của tổ chức đảng, sinh hoạt cơ quan, đơn vị, có kiểm tra nhận thức, thu hoạch, tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết của tập thể và cá nhân; đồng thời lấy đó làm cơ sở đánh giá kết quả, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên theo định kỳ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy:“muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát”. Lời dạy của Người đến thời điểm hiện tại vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là trong bối cảnh mạng công nghệ thông tin bùng nổ, những tác động tích cực và tiêu cực đan xen ảnh hưởng đến nhận thức của con người một cách đa chiều thì yêu cầu thường xuyên và đổi mới hoạt động kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, để quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa thể hiện đầy đủ quan điểm, đường lối, chủ trương trong nghị quyết của Đảng, không bị chệch hướng hoặc bị “nhóm lợi ích” chi phối, trục lợi, cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát. Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, hằng năm, ngay từ đầu năm, các cấp ủy đảng trong Đảng bộ VietinBank đã ban hành chương trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết phải thi hành. Trong đó, chú trọng kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, cấp ủy cấp dưới và tổ chức đảng, cấp ủy viên, đặc biệt là người đứng đầu trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Ủy ban kiểm tra Đảng ủy VietinBank đã xây dựng và chủ động thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, định kỳ báo cáo cấp ủy kết quả kiểm tra, giám sát. Sau mỗi cuộc kiểm tra, giám sát, đã kịp thời ban hành kết luận để đánh giá kết quả thực hiện, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề cần được rút kinh nghiệm, khắc phục những sai sót; đồng thời, bổ sung, điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết đạt hiệu quả hơn.

“Làm thế nào để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống” là vấn đề luôn được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Đối với ngành ngân hàng, nơi vẫn luôn được coi là huyết mạch của cả nền kinh tế đất nước, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò lãnh đạo, toàn diện của tổ chức đảng trong doanh nghiệp, chú trọng ứng dụng khoa học công nghệ trong quán triệt và tổ chức triển khai nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đưa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XIII vào phát triển nhiệm vụ đơn vị, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động góp phần chuyển hóa những quyết sách lớn của Đảng thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.

Để nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, biến những tư tưởng, quan điểm, chủ trương lớn của Đảng thành hiện thực, trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, trong học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, cần nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là bí thư cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng. Cấp ủy các cấp phải thật sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và quyết tâm cao trên cơ sở quán triệt đầy đủ nghị quyết của Đảng, kế hoạch, chương trình hành động, đề án đã được tập thể cấp ủy thông qua. Đồng thời, chú trọng đến chất lượng đội ngũ báo cáo viên để nghị quyết thật sự “thấm” và “ngấm” vào trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và người lao động.

Hai là, phải thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối, của Đảng thành các quy định của pháp luật, thành các chương trình hành động sát hợp với thực tiễn của các cấp ủy, các bộ, ban, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị. Đây là nội dung quan trọng, đòi hỏi các cấp ủy đảng phải có sự vận dụng sáng tạo, đưa ra những giải pháp có tính khả thi và đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Việc tổ chức triển khai các chương trình hành động, kế hoạch đã đề ra phải có sự phân công cụ thể, rõ ràng, giao cho những đồng chí trong ban thường vụ, trong cấp ủy phụ trách từng nội dung. Làm rõ trách nhiệm của từng cấp ủy đảng, của từng cá nhân trước mỗi kế hoạch, chương trình hành động.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền nghị quyết của Đảng trên các kênh thông tin, báo chí, phát hành tài liệu. Phát huy tính tích cực của công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội để tuyên truyền nghị quyết. Chú trọng công tác tuyên truyền miệng, thông tin kịp thời tới cơ sở, đặc biệt là tuyên truyền để nhân dân có nhận thức đúng đắn về những vấn đề cốt lõi trong nghị quyết của Đảng, gắn với những vấn đề thực tiễn phải triển khai ở cơ sở. Tuyên truyền rộng rãi gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng. Tiếp tục quan tâm hơn nữa tới điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, tài liệu để chất lượng học tập, tuyên truyền, triển khai các nghị quyết của Đảng ngày càng được nâng cao, qua đó góp phần hiện thực hóa nghị quyết của Đảng trong thực tiễn đời sống xã hội.

Bốn là, phải coi trọng hơn nữa khâu sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng. Kịp thời đánh giá, bổ sung ngay trong quá trình triển khai hoặc sau một khâu của cả quá trình thực hiện nghị quyết những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn cuộc sống. Trong quá trình sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm cần có thái độ thẳng thắn, dám nhìn thẳng vào sự thật, khẳng định những việc đã thực hiện được, chỉ ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm để có biện pháp khắc phục tháo gỡ. Đánh giá sát đúng thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm phát hiện và nhân rộng những cách làm hay, hiệu quả những điển hình tiên tiến để biểu dương, khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân thực hiện tốt việc triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng. Như vậy thì mới có hiệu quả tốt hơn trong việc triển khai đưa nghị quyết của Đảng vào trong cuộc sống.

Năm là, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra việc thực hiện nghị quyết. Đảng ta đã khẳng định lãnh đạo phải có kiểm tra, không có kiểm tra coi như không có lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận xét: “Chín phần mười khuyết điểm của chúng ta là do thiếu sự kiểm tra”. Công tác kiểm tra trong quá trình thực hiện nghị quyết phải là công tác thường xuyên ngay từ khâu đầu tiên đến khâu cuối. Phải kiểm tra ngay từ khâu quán triệt, phổ biến, tuyên truyền nghị quyết đến việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch, đề án, nhất là kiểm tra ngay trong khi thực hiện. Mục đích của sự kiểm tra là làm cho nghị quyết của Đảng được thực hiện đúng trong cuộc sống, kịp thời uốn nắm nhận thức sai trái, lệch lạc; phát hiện, biểu dương, nhân rộng cái đúng, cái mới, cái tiến bộ. Kiểm tra không chỉ ở những nơi làm chưa tốt mà còn ở những nơi làm tốt để nhân rộng cho nơi khác học tập. Thực hiện tốt và tăng cường công tác kiểm tra còn có tác dụng phát hiện cho Đảng, Nhà nước những đường lối, chủ trương, chính sách không phù hợp; kịp thời ban hành điều chỉnh, bổ sung những chủ trương, chính sách mới phù hợp với thực tiễn.

Cuối cùng, cần chú trọng nâng cao ý thức tự giác, trách nhiệm học tập nghị quyết của cán bộ, đảng viên. Học nghị quyết của Đảng vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trước quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong học tập nghị quyết của Đảng, phải nắm vững, hiểu sâu những nội dung cơ bản của nghị quyết để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và để thường xuyên tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân, tạo sự đồng thuận trong thực hiện nghị quyết của Đảng, có như vậy việc triển khai thực hiện nghị quyết mới thành công, để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống./.

Văn phòng HĐQT Vietinbank

Tài liệu tham khảo:

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 10, tr.205

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.521

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 10, tr.380

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 11, tr.572

Trích Hồ Chí Minh toàn tập

 

 

.
.
.
.