.
.

Bài dự thi giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2022:

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam nỗ lực phát triển ngành Điện góp phần xây dựng Việt Nam hùng cường

Thứ Năm, 08/09/2022|09:26

Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm đến ngành Điện và công nhân viên ngành Điện. Tình cảm của Bác đối với ngành Điện mãi mãi là tài sản tinh thần thiêng liêng và vô giá đối với mỗi cán bộ công nhân viên ngành Điện. Những lời căn dặn của Bác khi đến thăm CBCNV ngành Điện năm xưa chính là kim chỉ nam, là động lực để Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng vươn lên, xây dựng và phát triển ngành Điện Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bác Hồ về thăm và nói chuyện với CBCNV ngành Điện năm 1954 - Ảnh tư liệu.
Bác Hồ về thăm và nói chuyện với CBCNV ngành Điện năm 1954 - Ảnh tư liệu.
Từ tư tưởng của Bác…
 
Ngày 21/12/1954, chỉ sau hơn 70 ngày trở về Hà Nội, Bác Hồ đã đến thăm Nhà máy điện Yên Phụ và Nhà máy đèn Bờ Hồ. Tại đây, Người căn dặn: “Nhà máy này bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải gìn giữ nhà máy làm cho nó phát triển hơn nữa”.
 
Bác còn căn dặn cán bộ, công nhân viên Nhà máy điện phải đoàn kết, thi đua, tiết kiệm. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải đoàn kết, thi đua nhằm tăng năng suất, tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu. Từ đấy, việc học tập và làm theo lời dạy của Bác về tư tưởng phát triển nhà máy điện và tinh thần đoàn kết vẫn luôn giữ nguyên giá trị và tính thời sự. Trong suốt quá trình phát triển và trưởng thành của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, tinh thần đoàn kết đã trở thành nét đẹp văn hoá đặc trưng của người thợ điện Việt Nam. Từng cán bộ, đảng viên, người lao động Tập đoàn đều thấm nhuần tư tưởng, nhận thức về tinh thần đoàn kết nội bộ, giúp đỡ, tương thân tương ái trong công việc và trong cuộc sống. Tinh thần đó đã được chuyển hoá thành hành động cụ thể, thiết thực của mỗi công ty, nhà máy, cơ quan, đơn vị, mỗi tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ngành Điện.
Gần 70 năm qua, trải qua nhiều thế hệ, tinh thần đoàn kết đó vẫn được gìn giữ, phát huy và đã trở thành truyền thống tốt đẹp, là sợi dây gắn kết các thành viên trong tập đoàn, giúp EVN tạo dựng một tập thể vững mạnh, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đã giao phó. Những nỗ lực học tập của lớp lớp cha anh trong ngành Điện đã gương mẫu, quyết tâm giữ gìn, phát huy tinh thần đoàn kết nội bộ trong suốt chặng đường dài để thế hệ CBCNV ngành Điện hôm nay có thêm động lực, tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, thực hiện tốt lời dạy của Bác phải đoàn kết chặt chẽ, thi đua làm cho Nhà máy phát triển hơn nữa.
 
Thật khó để có thể kể hết được những nỗ lực vượt khó, vất vả của những người thợ điện đã trải qua để giữ vững dòng điện cho Tổ quốc, đóng góp tạo nên những thành quả to lớn của đất nước trên con đường phát triển đến ngày hôm nay. Và cũng thật xúc động và tự hào khi trên con đường đó, ngành Điện lực Việt Nam luôn nhận được tình cảm và sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ kính yêu.
 
Trải qua gần 70 năm, kể từ ngày đầu tiếp quản nhá máy điện cũ kỹ, nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, ngành Điện lực Việt Nam đã có những bước đi vững chắc và phát triển vượt bậc. Từ cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, từ chỗ cung không đáp ứng đủ cầu, đến nay hệ thống điện Việt Nam đã được xây dựng ngày càng hiện đại, từng bước đáp ứng nhu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Ngành Điện lực Việt Nam đã làm tốt vai trò của mình, nỗ lực huy động các nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư xây dựng hệ thống nguồn và lưới. Hiện nay, hệ thống điện Việt Nam đã được xếp hạng về quy mô lớn thứ 23 trên thế giới, nhiều công trình điện lớn, tiêu biểu như các nhà máy thuỷ điện lớn như: Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, đường dây 500 kV Bắc - Nam,… đã trở thành các dấu mốc vẻ vang của lịch sử phát triển ngành Điện lực Việt Nam.

 

Nhà máy Thủ điện Sơn La.
Nhà máy Thủ điện Sơn La.
… Đến chủ trương điện khí hóa của Đảng
 
Những vấn đề lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, có ý nghĩa và ảnh hưởng to lớn, trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Trong các nhiệm kỳ, Bộ Chính trị, BCH Trung ương Đảng ta ra sức tìm tòi khám phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cả trên phương diện hoạch định xây dựng đường lối, chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Một trong những tài sản lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đảng ta mà cố Tổng Bí thư Lê Duẩn để lại chính là nội dung công nghiệp hóa XHCN, trong đó, trọng tâm công nghiệp hóa trên nền tảng điện khí hóa gắn kết chặt chẽ với hiện đại hóa.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, V.I.Lênin từng cho rằng, năng suất lao động là yếu tố quyết định sự thắng lợi của một chế độ xã hội, chủ nghĩa xã hội sẽ đánh bại chủ nghĩa tư bản, thay thế chủ nghĩa tư bản khi tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Lênin khẳng định, chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc. Việc đặt nền móng cho sự thực hiện kế hoạch điện khí hóa vĩ đại sẽ cho phép chúng ta khôi phục nền đại công nghiệp và ngành vận tải trên một quy mô và một cơ sở kỹ thuật khiến có thể hoàn toàn và vĩnh viễn chiến thắng nạn đói kém, cảnh nghèo cùng. Từ tư tưởng của V.I.Lênin, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam. Ngay từ Đại hội III của Đảng (năm 1960), Trung ương đã xác định: “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ”. Như vậy, lần đầu tiên khái niệm “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” được đưa vào văn kiện Đại hội Đảng. Muốn đất nước ta từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu tiến lên CNXH, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá (CNH). Trung ương chỉ rõ, thực chất công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là cách mạng kỹ thuật. Vấn đề làm rõ đường lối cách mạng kỹ thuật ở nước ta phải như thế nào mới phù hợp. Theo đó cần ra sức phát triển điện, than, dầu khí và các ngành sản xuất nguyên liệu, vật liệu, khắc phục tình trạng mất cân đối trong lĩnh vực này.
 
Nhìn lại giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975, mặc dù diễn ra trong điều kiện tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa, điện khí hóa còn hết sức hạn chế, quá trình này vẫn đạt được những kết quả quan trọng. Từ năm 1961 đến năm 1964, vốn đầu tư xây dựng cơ bản dành cho công nghiệp là 48% trong đó, công nghiệp nặng chiếm gần 80%. Giá trị sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với năm 1960. So với năm 1955, số xí nghiệp công nghiệp năm 1975 tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã và đang hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
 
Trong thập niên 70-80 của thế kỷ XX, tuy đất nước ta phải đương đầu với sự bao vây cấm vận, phải dồn sức khắc phục hậu quả chiến tranh, Nhà nước vẫn dành một phần quan trọng để xây dựng những công trình quan trọng về dầu khí, khai khoáng, sắt thép, điện, xi măng, cơ khí, phân bón, vải, giấy... Từ đó, ra đời các công trình lớn như: Thủy điện Hòa Bình, Trị An, Nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, đóng tàu Bạch Đằng, dầu khí Vietsovpetro... Kế thừa những thành tựu đó, sau đổi mới kinh tế nhiều công trình khánh thành đi vào hoạt động: Nhà máy Thủy điện Sơn La với công suất 2.400MW, Nhà máy Thủy điện Ialy 720MW, Hầm đường bộ Hải Vân,… những công trình này đang phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Quan điểm của Đảng ta về điện khí hóa chính là phát huy tư tưởng phát triển nhà máy điện của Bác Hồ mà Người đã yêu cầu từ tháng 12/1954. Những vấn đề đó vẫn còn tính thời sự sâu sắc qua các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI, XII và Đại hội XIII của Đảng. CNH, HĐH gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
EVN ứng dụng công nghệ vệ sinh thiết bị điện khi mang điện.
EVN ứng dụng công nghệ vệ sinh thiết bị điện khi mang điện.
Vì khát vọng Tổ quốc hùng cường - học Bác để xây dựng và phát triển EVN
 
Khát vọng xây dựng đất nước hùng cường được thể hiện trong phương hướng phát triển của ngành điện lực Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đề án Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã được xây dựng trên cơ sở 3 quan điểm cốt lõi trong Cương lĩnh điện khí hóa thời kỳ đổi mới. Thứ nhất, phát triển điện lực đi trước một bước nhằm cung cấp đủ điện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân. Thứ hai, phát triển đồng bộ nguồn và lưới; thực hiện đầu tư phát triển điện lực cân đối giữa các vùng, miền trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi vùng miền; không xây dựng thêm các đường dây truyền tải điện liên miền giai đoạn 2021-2030; hạn chế tối đa việc xây dựng mới các đường dây tải điện liên miền giai đoạn 2031-2045. Thứ ba, tiếp tục xem xét, phát triển thủy điện, năng lượng tái tạo và năng lượng mới (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, điện rác…) với quy mô phù hợp. Xem xét lộ trình giảm các nguồn điện than, phát triển các nguồn điện khí LNG một các hợp lý. Tăng cường nhập khẩu điện trên cơ sở tuân thủ các văn bản ghi nhớ đã cam kết.
 
Theo Đề án Quy hoạch điện VIII, công suất cực đại năm 2025 đạt khoảng 59.389-61.357MW; năm 2030 khoảng 86.493 - 93.343MW; năm 2035 khoảng 113.952-128.791MW; năm 2040 khoảng 135.596-162.904MW và năm 2045 khoảng 153.271-189.917MW. Về phát triển nguồn điện, năm 2025, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 102.590-105.265MW. Trong đó, thủy điện đạt 25.323MW, chiếm tỷ lệ 24,1-24,7%; nhiệt điện than 29.679MW, chiếm tỷ lệ 28,2-28,9%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 14.117MW, chiếm tỷ lệ 13,4-13,7%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối,...) 29.618-31.418MW, chiếm tỷ lệ 28,9-29,8%; nhập khẩu điện 3.853-4.728 MW chiếm tỷ lệ 3,7-4,5%.
Năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 130.371-143.839MW. Trong đó, thủy điện và thủy điện tích năng đạt 26.684-27.898MW chiếm tỷ lệ 19,4-20,5%; nhiệt điện than 40.899MW chiếm tỷ lệ 28,4-31,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 27.471-32.271MW chiếm tỷ lệ 21,1-22,4%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 31.380-37.030MW chiếm tỷ lệ 24,3-25,7%; nhập khẩu điện 3.936-5.74 MW chiếm tỷ lệ 3-4%.
 
Năm 2045, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 261.951-329.610MW, trong đó: thủy điện và thủy điện tích năng đạt 35.677-41.477MW chiếm tỷ lệ 12,6-13,6%; nhiệt điện than 50.949MW chiếm tỷ lệ 15,4-19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 61.683-88.533 MW chiếm tỷ lệ 23,5-26,9%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 104.900-137.610 MW chiếm tỷ lệ 40,1-41,7%; nhập khẩu điện 8.743-11.042 MW chiếm tỷ lệ 3,3%. Quy hoạch điện VIII nhằm mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân là khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045.
 
Theo các thông tin chính thức, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030” với tầm nhìn đưa Việt Nam trở thành quốc gia số. Để thực hiện chương trình này, Tập đoàn  Điện lực Việt Nam đã đẩy mạnh chuyển đổi số, không ngừng ứng dụng các thành tựu của  cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời, tận dụng sức mạnh của công nghệ số, dữ liệu số để nâng cao năng lực quản trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo giá trị gia tăng mới nhằm phục vụ tốt nhất cho các hoạt động của EVN. Trong đó, EVN đặc biệt chú trọng đến vấn đề tự động hóa của toàn ngành vì những lợi ích to lớn của tự động hóa mang lại trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành Điện lực, góp phần hoàn thành cơ bản chuyển đổi số trong năm 2022 và đến năm 2025 trở thành doanh nghiệp hoạt động trên môi trường số.
 
Đề án tổng thể chuyển đổi số trong năm 2022, tính đến năm 2025 xác định 5 lĩnh vực chuyển đổi số. Bao gồm: sản xuất, kinh doanh và dịch vụ khách hàng, đầu tư xây dựng, quản trị nội bộ, viễn thông và công nghệ thông tin. Với tinh thần phát huy nội lực, huy động nguồn lực nội tại, EVN và các đơn vị thành viên đã có nhiều sáng kiến, áp dụng hiệu quả về những ứng dụng của tự động hóa và chuyển đổi số trong sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng và quản trị doanh nghiệp.
Năm 2021, EVN đã phát động chương trình phát triển các sản phẩm tự động hóa với tên gọi “Make by EVN”. Trong đó, các sản phẩm tự động hóa “Make by EVN” phải do các đơn vị trong Tập đoàn tự nghiên cứu và phát triển. Trong lộ trình thực hiện chuyển đổi số, Tập đoàn EVN đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, EVN có 10 sản phẩm “Make by EVN” và 3 “Make in Việt Nam”. Năm 2022, EVN đã công nhận 6 sản phẩm tự động hóa “Make By EVN". Theo Tổng công ty EVN TP.HCM, ngành điện TP.HCM rất tự hào có một sản phẩm là chương trình quản lý mất điện được EVN, xét duyệt và công nhận là sản phẩm Make by EVN. Trước năm 2010, công tác quản lý mất điện được EVNHCMC quản lý trên file excel rất thủ công. Với nhu cầu ngày càng nâng cao và đáp ứng chuyển đối số, từ năm 2016 bằng nguồn lực nội bộ EVNHCMC đã nghiên cứu thành công xây dựng chương trình quản lý mất điện trên sơ đồ đơn tuyến, chương trình này được viết trên mã nguồn mở hết sức linh hoạt trong việc lập trình cũng như kết nối với các hệ thống khác. Ngoài ra, kết hợp với hệ thống tự động hóa, thiết bị được giám sát điều khiển, công tơ đo đếm thông minh để truyền dữ liệu về chương trình này. Qua đó, ngành điện có thể giám sát được tình hình cung cấp điện trên toàn địa bàn thành phố 24/7. Chương trình này đã được EVN chấp thuận và sử dụng đại trà đối với tất cả các công ty điện lực trên cả nước. Từ đó, góp phần giúp cho thống nhất và đồng bộ về công tác quản lý, công tác báo cáo.
 
Tiếp đến là sản phẩm công tơ điện tử CPC EMEC do Tổng công ty Điện lực miền Trung thực hiện. Thông qua công tơ này có thể rút ngắn thời gian chốt và phát hành hoá đơn điện. Đồng thời, khách hàng có thể giám sát so sánh kiểm soát mức tiêu thụ điện. Tổng công ty Điện lực miền Trung thực hiện Trạm sạc nhanh ô tô điện. Bên cạnh đó, đơn vị này cũng có sản phẩm thiết bị chỉ thị và cảnh báo sự cố trên lưới điện trung áp và Hệ thống cảnh báo sự cố lưới điện. Sản phẩm này sẽ cảnh báo từ xa các sự cố, phục vụ công tác điều hành quản lý, kinh doanh điện năng của ngành điện. Tiếp đến là phần mềm thu thập dữ liệu công tơ đo đếm điện (EVNHES)  do Công ty Viễn thông Điện lực và Công nghệ thông tin thực hiện. Phần mềm này sẽ thu thập dữ liệu có khả năng thu thập được được toàn bộ các chủng loại công tơ trên lưới EVN hiện nay. Cuối cùng là sản phẩm số hoá công tác điều độ lưới điện do Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội thực hiện.
Trung tâm Điện lực Duyên Hải (Trà Vinh).
Trung tâm Điện lực Duyên Hải (Trà Vinh).
Những năm qua, nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều sáng kiến, kinh nghiệm được áp dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ khách hàng của EVN đã góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất lao động, tạo nhiều thuận lợi cho khách hàng sử dụng điện. Tính đến hết năm 2019, năng suất lao động toàn Tập đoàn tăng 10% so với năm 2018, đạt 2,41 triệu kWh/người (gấp gần 2 lần bình quân chung cả nước). EVN tiếp tục phấn đấu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch năm 2020, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động, phấn đấu kinh doanh có lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn. Trong đó, riêng về năng suất lao động phải tăng 10% so với năm 2019.
 
Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được EVN thực hiện đồng bộ với các giải pháp quản trị và kiểm soát hiệu quả chi phí sản xuất, quản lý và giá thành sản phẩm. Kết quả từ việc tiết kiệm chi phí đã làm cho giá thành sản xuất điện năm sau đều giảm so với năm trước. Tổn thất điện năng của hệ thống điện năm 2019 đạt 6,5% là ngưỡng không nhiều nước trên thế giới đạt được. Độ tin cậy cung cấp điện cho khách hàng sử dụng điện năm sau tốt hơn năm trước. Tập đoàn phấn đấu giảm thời gian mất điện bình quân của khách hàng, sẽ đạt trình độ vận hành hệ thống điện của nhóm ASEAN 4 vào năm 2020. Chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam năm 2019 đạt 88,2 điểm, tăng 0,24 điểm so với năm 2018, duy trì thứ hạng 27/190 quốc gia, nền kinh tế và đứng thứ 4 Đông Nam Á, vượt 2 năm so với mục tiêu của Chính phủ.
 
Thời gian gần đây, EVN đã có sự chuyển biến tích cực trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng sử dụng điện. Sự chuyển biến tư duy từ cung cấp điện sang dịch vụ chăm sóc khách hàng, coi khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động điện lực đã tạo thành nét đẹp văn hóa kinh doanh điện lực “văn minh, minh bạch và hiệu quả”. Nhờ đó, mức độ hài lòng của khách hàng sử dụng điện đã đạt trên 8,3 điểm năm 2019, đưa EVN lên thành tựu nổi bật của ngành Điện đã được quốc tế đánh giá cao đó là công cuộc điện khí hóa nông thôn, cấp điện cho người dân miền núi, vùng dân tộc và hải đảo. Nếu năm 1975 Việt Nam chỉ có 25% số huyện, 15% số xã và 2,5% số hộ dân nông thôn có điện, đến nay, con số đó đã thay đổi đến mức hoàn hảo: 100% số huyện, 100% số xã và 99,65% hộ dân có điện. Đồng thời, EVN đã đảm nhận cấp điện cho 11/12 huyện đảo trên cả nước, trong đó có huyện đảo Trường Sa, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Dương Quang Thành - Chủ tịch HĐTV EVN (thứ 3 từ trái sang) và ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng giám đốc EVN (thứ 2 từ phải sang) tặng quà và trao các quyết định công nhận các sản phẩm Make by EVN
Đồng chí Dương Quang Thành - Chủ tịch HĐTV EVN (thứ 3 từ trái sang) và đồng chí Ngô Sơn Hải - Phó Tổng giám đốc EVN (thứ 2 từ phải sang) trao Quyết định công nhận các sản phẩm Make by EVN.
Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, EVN luôn thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình. Từ năm 1995 đến nay, Tập đoàn và các đơn vị trực thuộc đã đóng góp hàng nghìn tỷ đồng vào các quỹ tấm lòng vàng, xoá đói giảm nghèo, chung tay cùng cả nước khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ; phụng dưỡng suốt đời gần 300 Mẹ Việt Nam Anh hùng. Thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi, sẽ còn nhiều thách thức lớn đặt ra đối với EVN. Đất nước đang phát triển với tốc độ cao, kéo theo nhu cầu điện năng liên tục gia tăng, đã tạo áp lực lớn đối với ngành Điện. Bên cạnh đó, EVN còn gặp nhiều khó khăn trong thu xếp vốn, giải phóng mặt bằng cho các công trình điện; nhiên liệu cho phát điện; cân đối giữa doanh thu và chi phí trước sự biến động thường xuyên các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh điện...
 
Thật khó để có thể kể hết được những nỗ lực vượt khó, vất vả của những người làm nghề Điện đã trải qua để giữ vững dòng điện cho Tổ quốc, đóng góp tạo nên những thành quả to lớn của đất nước trên con đường phát triển đến ngày hôm nay. Và cũng thật xúc động và tự hào khi trên con đường đó, ngành Điện lực Việt Nam luôn ghi nhớ và thực hiện những lời căn dặn của Bác Hồ, đồng thời cũng nhận được tình cảm và sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước. Tập thể lãnh đạo cùng cán bộ nhân viên và người lao động ngành Điện sẽ luôn cố gắng, đoàn kết, quyết tâm, vươn lên, phát triển một cách bền vững, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ và nhân dân giao phó; thực hiện thật tốt lời dạy của Bác Hồ kính yêu.

Bùi Thị Trung Hà, Lê Thị Hoàng Anh -  Ban Truyền thông Tập đoàn Điện lực Việt Nam

.
.
.
.