.
.

Định hướng chính sách xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới

Thứ Năm, 03/03/2022|16:01

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định cụ thể mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh; coi đây là nhân tố quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và khát vọng dân tộc phồn vinh, hạnh phúc. Vấn đề hết sức quan trọng, mang tính quyết định, đó là cần đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tạo động lực cho giai cấp công nhân phát triển và phát huy vai trò lịch sử trong giai đoạn mới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chúc tết công nhân Công ty cổ phần Than Đèo Nai
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chúc tết công nhân Công ty cổ phần Than Đèo Nai

Tình hình công nhân, người lao động ở Việt Nam hiện nay

Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo; tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong điều kiện khoa học - công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng nhanh và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển mạnh về số lượng, không ngừng nâng cao về chất lượng, đa dạng về cơ cấu và ngày càng có vai trò to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiện nay, tổng số công nhân, người lao động trong cả nước có khoảng trên 16 triệu người, có mặt ở tất cả các thành phần kinh tế, các ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Công nhân, người lao động nước ta có xu hướng trẻ hóa, lao động dưới 30 tuổi chiếm trên 60%; đặc biệt, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ lệ này còn cao hơn. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, trình độ học vấn của công nhân, người lao động nước ta không ngừng được nâng cao. Công nhân, người lao động là lực lượng có khả năng sáng tạo trong sản xuất và đời sống xã hội, thích ứng nhanh với cơ chế mới và tiếp cận nhanh với khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại, có vai trò quan trọng quyết định tốc độ phát triển của nền kinh tế.

Hầu hết công nhân, người lao động nước ta có phẩm chất chính trị và bản lĩnh vững vàng, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước. Công nhân, người lao động luôn là lực lượng kiên quyết ủng hộ và đi tiên phong trong thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công - nông và đội ngũ trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân - nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trước sự phát triển với tốc độ ngày càng nhanh của khoa học, công nghệ và yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng công nhân, người lao động nước ta còn bộc lộ một số hạn chế:

Trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp so với yêu cầu và mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật, giữa các bộ phận công nhân. Số lao động giản đơn, chưa qua đào tạo, trình độ bậc thợ thấp còn chiếm tỷ lệ cao trong các ngành, như xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, dệt may, da giày... Một bộ phận công nhân chưa ý thức được đầy đủ yêu cầu của cạnh tranh quốc tế, chưa thường xuyên rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp còn hạn chế, việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm; tỷ lệ cán bộ trong hệ thống chính trị xuất thân từ công nhân và tỷ lệ đảng viên trong công nhân còn thấp.

Tiền lương, thu nhập của đại bộ phận công nhân, người lao động nhìn chung còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đóng góp đối với sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm hạn chế động lực lao động, sản xuất của công nhân. Phân hóa giàu nghèo trong công nhân, người lao động ngày càng sâu sắc. Điều đáng lưu ý là những năm gần đây, do ảnh hưởng của dịch bệnh, tỷ lệ nhóm công nhân có mức sống khó khăn đang có xu hướng tăng lên; nhóm công nhân có mức sống cao và trung bình có xu hướng giảm.

Vấn đề nhà ở và các thiết chế xã hội phục vụ công nhân, người lao động còn nhiều khó khăn, bất cập. Vẫn còn tình trạng công nhân, người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất phải tự thuê nhà do người dân xây dựng, chất lượng thấp nhưng giá cho thuê cao, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống, dễ gây ra tình trạng mất ổn định về an ninh, trật tự và xuất hiện các tệ nạn xã hội. Mặt khác, sự khác nhau về lợi ích, thậm chí cả xung đột về lợi ích, sự chênh lệch về mức sống và thu nhập, sự cách xa nhau trên nhiều lĩnh vực, như trình độ, địa vị xã hội, nghề nghiệp, thu nhập,... đang diễn ra trong nội bộ công nhân, người lao động làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tình trạng vi phạm các quy định về tiền lương, phụ cấp, tiền làm thêm giờ, thời gian làm việc và nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... còn diễn ra khá nghiêm trọng, dẫn đến quan hệ lao động có diễn biến phức tạp, nhất là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. 

Mặc dù trong những năm qua, Nhà nước, người sử dụng lao động đã có nhiều cố gắng cải thiện điều kiện làm việc tại các doanh nghiệp, nhưng kết quả đạt được còn chưa cao, nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân và các hợp tác xã. Do tình trạng công nghệ, thiết bị lạc hậu nên lao động thủ công, nặng nhọc, độc hại vẫn chiếm tỷ lệ cao; các phương tiện bảo vệ cá nhân còn thiếu, kém chất lượng, dẫn đến tình trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vẫn diễn ra ở mức nghiêm trọng.

Một bộ phận công nhân, người lao động, nhất là ngoài khu vực nhà nước, do điều kiện cuộc sống còn khó khăn, thời gian làm việc căng thẳng, ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chính trị, xã hội, ít được thông tin, tuyên truyền, nên ý thức giác ngộ giai cấp, nhận thức chính trị, nhận thức về Đảng, về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn, hiểu biết về pháp luật, chính sách còn hạn chế.

Đồng thời, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động trực tiếp đến mọi mặt của sản xuất và đời sống, trong đó có việc làm, thu nhập và mức sống của người lao động. Đặc biệt, theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế, sẽ có nhiều triệu lao động Việt Nam ở các ngành thâm dụng lao động có thể bị mất việc làm do máy móc thay thế con người.

Một số hàm ý chính sách phát triển giai cấp công nhân trong bối cảnh hiện nay

Thứ nhất, cần chú trọng xây dựng môi trường xã hội, giải phóng lực lượng sản xuất, tạo mọi điều kiện để công nhân, người lao động phát huy hết khả năng của mình trong lao động, học tập, cống hiến. Cần thường xuyên rà soát các cơ chế, chính sách, pháp luật để từng bước xóa bỏ những cơ chế, chính sách, pháp luật đã và đang kìm hãm tính tích cực, chủ động sáng tạo của công nhân, người lao động, đồng thời tạo lập cơ chế mới, bảo đảm giải phóng người lao động về mọi mặt. Cần chú trọng đến chính sách việc làm, bằng cách khuyến khích các lĩnh vực, các ngành, nghề, khuyến khích người có vốn, có kỹ thuật - công nghệ, có trình độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút ngày càng nhiều lao động vào làm việc.

Thứ hai, quan tâm tổ chức, chỉ đạo thực hiện tốt cơ chế dân chủ, để phát huy đầy đủ quyền làm chủ trực tiếp của công nhân trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và quyền dân chủ đại diện của người lao động thông qua tổ chức công đoàn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục ban hành và đẩy mạnh các chính sách ưu đãi tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ, tôn vinh những công nhân, người lao động có tay nghề giỏi; khích lệ, tạo cơ hội, điều kiện vật chất, tinh thần cho công nhân học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, phát huy tài năng, trí tuệ, sự cần cù, tinh thần vượt khó, cống hiến; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Song song với đó, Nhà nước cần thống nhất quản lý và tăng cường quản lý về đào tạo nghề. Tiến hành kế hoạch hóa công tác dạy nghề một cách đồng bộ, nhằm bảo đảm sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục, giữa hệ thống giáo dục, đào tạo với phát triển kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng các trung tâm dạy nghề chất lượng cao, xây dựng một số trường dạy nghề chuẩn, chương trình chuẩn trong cả nước, để đào tạo những ngành, nghề mũi nhọn và để công nhân tiếp cận được với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật, công nghệ. Phát triển đa dạng các loại hình đào tạo ở cả nhà trường và ngay tại doanh nghiệp một cách phù hợp, hiệu quả, thích ứng với khả năng, điều kiện học tập, để mọi công nhân, người lao động đều có cơ hội, điều kiện học tập.

Thứ ba, nguyện vọng chính đáng của công nhân, người lao động khi tham gia lao động là được trả công tương xứng với sức lao động bỏ ra, được quan tâm, chăm lo đến các điều kiện lao động, điều kiện sống, luôn có việc làm ổn định, được đáp ứng các quyền lợi xã hội khác, bao hàm cả sự công bằng xã hội. Do vậy, Nhà nước cần thông qua các chính sách xã hội và bằng các chính sách xã hội, để đáp ứng các điều kiện thiết yếu cho các hoạt động của công nhân, người lao động. Bởi, thực chất bảo đảm đời sống, đáp ứng các điều kiện làm việc cho người lao động, đứng ở góc độ quản lý là đầu tư theo chiều sâu, là bồi dưỡng nhân lực, phát triển nhân tài, là một trong những phương thức đầu tư quan trọng nhất, có hiệu quả nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp, đơn vị, thuộc các thành phần kinh tế, nhằm bảo đảm lương thực tế đáp ứng đời sống cho công nhân, người lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Cần có những quy định ưu đãi mạnh mẽ công nhân có trình độ bậc cao, những người có tài năng thực sự, nhằm tạo động lực khuyến khích công nhân, người lao động cống hiến hết năng lực, trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm pháp luật lao động, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, xử lý nghiêm những vi phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; chú trọng chăm lo, cải thiện điều kiện lao động, phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; quan tâm xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách chăm sóc sức khỏe cho công nhân, người lao động, nhất là công nhân, người lao động nữ, những công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại... Chỉ đạo các cấp, các ngành quan tâm phát triển và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế ngành, nghề. Bên cạnh đó, cần đặc biệt chú trọng tổ chức triển khai thực hiện nghiêm, có hiệu quả Luật Bảo hiểm xã hội, bảo đảm để công nhân, người lao động được thực hiện đúng đắn, đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các chính sách bảo hiểm xã hội.Một khu nhà ở dành cho công nhân tại Khu công nghiệp Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh_Nguồn: diendandoanhnghiep.vn

Thứ năm, hoàn thiện chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, người lao động. Đẩy mạnh việc phát triển nhà ở cho công nhân khu công nghiệp thông qua việc cải thiện chính sách thu hút đầu tư, sửa đổi pháp luật thuế; đồng bộ các quy định pháp luật về đất đai, đầu tư, nhà ở... theo hướng bố trí quỹ đất phát triển nhà ở cho công nhân ngay trong khu công nghiệp, coi nhà ở công nhân là một hạ tầng thiết yếu của khu công nghiệp. Đồng thời, cần có chính sách xây dựng phát triển đồng bộ các thiết chế văn hóa, mở rộng mô hình thiết chế công đoàn; xây dựng khu tập thể văn hóa, văn minh. Bảo đảm cho công nhân có nơi ở ổn định, an toàn; tạo tâm lý yên tâm, góp phần tái tạo sức lao động, xây dựng môi trường sống lành mạnh và đời sống văn hóa cho công nhân, người lao động.

Thứ sáu, quan tâm hơn nữa đến các chính sách khuyến khích xã hội, như chính sách thi đua, khen thưởng, chính sách tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều cống hiến, nhất là đối với những công nhân, người lao động trực tiếp; làm cho người công nhân luôn thấy tự hào về nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách khuyến khích xã hội, phát huy sáng kiến, phát minh, sáng chế, chính sách động viên khuyến khích tài năng... nhằm động viên, khuyến khích công nhân, viên chức, người lao động tích cực phấn đấu làm việc, rèn luyện đạo đức, lối sống, góp phần xây dựng giai cấp công nhân thực sự vững mạnh. Cần kết hợp chặt chẽ, hài hòa việc xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm xã hội và chính sách khuyến khích xã hội, để hai loại chính sách này tác động, bổ sung cho nhau, tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích mọi ng­ười, mọi tập thể công nhân trong các thành phần kinh tế, các ngành, nghề, các lĩnh vực phát triển.

Thứ bảy, cơ cấu lại lực lượng lao động, nhằm không chỉ đáp ứng và thích ứng với nhu cầu, đòi hỏi, sự dịch chuyển của nền kinh tế số, kinh tế tri thức, mà còn góp phần ứng phó với những tình huống khẩn cấp như đại dịch COVID-19 vừa qua. Việc cơ cấu lại thị trường lao động cần đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp, có thể tập trung theo ba phương hướng: Một là, phân bổ lại lực lượng lao động theo khu vực địa lý, giữa các vùng, miền, giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các tỉnh, thành phố khác, tránh dồn quá nhiều, quá đông lực lượng lao động vào một số khu vực; Hai là, cơ cấu lại lĩnh vực đầu tư, phát triển. Về bản chất, đây là việc đổi mới mô hình tăng trưởng, theo hướng cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp; Ba là, cơ cấu đào tạo theo ngành, nghề bằng cách phân bổ cân đối giữa các cấp, các loại hình. Điểm quan trọng là cần khắc phục tình trạng đào tạo không theo nhu cầu của thị trường.

Thứ tám, Công đoàn Việt Nam với tư cách là tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động có vai trò to lớn trong xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân. Do vậy, để xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, tất yếu phải quan tâm xây dựng phát huy vai trò của tổ chức công đoàn. Các cấp ủy cần đặc biệt chú trọng lãnh đạo, tạo điều kiện để tổ chức công đoàn làm tròn vai trò, vị trí của mình, thông qua hoạt động công đoàn tập hợp đông đảo công nhân, người lao động trong mặt trận thống nhất rộng rãi, phát huy vai trò tiên phong, chủ đạo của giai cấp công nhân trong hệ thống chính trị. Các cấp ủy, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng cần thường xuyên tiếp xúc, làm việc, lắng nghe ý kiến của công đoàn, của công nhân, viên chức, người lao động, tôn trọng và phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của tổ chức công đoàn, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng phát triển đảng viên trong công nhân. Cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp, để tạo động lực xây dựng, thu hút đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực, trình độ, có bản lĩnh và nhiệt tình công tác công đoàn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn. Quan tâm, ưu tiên tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng những cán bộ trẻ, có năng lực, phẩm chất, xuất thân từ công nhân vào các cấp ủy, vào các cương vị quản lý nhà nước, phấn đấu từng bước tăng tỷ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân, tham gia trong cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy và xử lý nghiêm những vi phạm trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng phát huy vai trò giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong tình hình mới.

Thứ chín, tạo thêm điều kiện để giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn góp tiếng nói xứng đáng của mình trong hoạch định đường lối, chính sách, trong quản lý nhà nước và xã hội. Cần nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với việc xây dựng giai cấp công nhân; chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các ngành thuộc các thành phần kinh tế thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách, pháp luật đối với giai cấp công nhân. Các cơ quan nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam triển khai có hiệu quả các chương trình hoạt động và tạo những điều kiện thuận lợi về kinh phí để tổ chức công đoàn hoạt động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh.

Thứ mười, bản thân tổ chức Công đoàn Việt Nam phải đổi mới mạnh mẽ cả tổ chức, nội dung lẫn phư­ơng thức hoạt động, theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 12-6-2021, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”. Phải đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để ngày càng động viên, thu hút đư­ợc đông đảo công nhân, người lao động trong các thành phần kinh tế gia nhập công đoàn và tự giác tham gia hoạt động công đoàn... Hoạt động của công đoàn phải hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động, lấy công nhân, viên chức, người lao động làm đối tượng vận động; lấy chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động làm mục tiêu hoạt động. Thông qua hoạt động công đoàn góp phần xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh, thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới./.

Theo tapchicongsan.org.vn

.
.
.
.