.
.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, bản lĩnh cầm quyền của Đảng Cộng sản - Một số vấn đề từ thực tiễn Việt Nam

Thứ Năm, 08/12/2011|22:23

 

Năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản là tổng hoà những phẩm chất, tri thức, kinh nghiệm, phương thức, phương pháp cách mạng tạo thành sức mạnh, uy tín giúp Đảng có thể tập hợp lực lượng, tổ chức thực hiện thành công lý tưởng, mục tiêu chính trị của mình.



1. Tổng kết những bài học kinh nghiệm lớn sau 80 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết: "Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(1).

Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước thời cơ, vận hội phát triển thuận lợi, đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã tạo thế và lực đưa Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, có những tiền đề bước đầu quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và sự tham gia tích cực, sáng tạo, đầy tinh thần trách nhiệm của Nhà nước, các đoàn thể nhân dân vào những hoạt động giữ gìn hoà bình, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước đã nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Đan xen với các nhân tố thuận lợi là những khó khăn, thử thách nhiều mặt. Trình độ phát triển còn thấp và tiềm lực còn hạn chế của nền kinh tế đất nước và những yếu kém trong quản lý kinh tế... đang chịu sự tác động gay gắt, hàng ngày của những biến động, rủi ro của nền kinh tế toàn cầu thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế: giá cả tăng vọt, lạm phát cao, đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn… Một số mặt bất cập, yếu kém trong bảo đảm an sinh và quản lý xã hội tích tụ từ trước chưa được giải quyết dứt điểm cùng với những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế gây ra những bức xúc xã hội cần được giải quyết. Sự chống phá điên cuồng, tinh vi và ác độc của các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội; tính chất phức tạp và tình trạng căng thẳng trong tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo; sự biến đổi khí hậu và những động thái mới liên quan đến an ninh phi truyền thống... đang là những trở ngại phải vượt qua.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã phân tích sâu sắc, toàn diện bối cảnh trong nước, quốc tế trong 5, 10 năm trước mắt và trong vài chục năm tới; xác định quyết tâm chính trị phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại (2), và đến giữa thế kỷ XXI, trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (3). Đó là sự nghiệp vẻ vang của toàn dân tộc, mà Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(4) chính là người đứng mũi chịu sào với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để hoàn thành sứ mạng và trọng trách nặng nề đó Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, bản lĩnh cầm quyền, xem đó là nhân tố của mọi nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp cách mạng.

2. Năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản là tổng hoà những phẩm chất, tri thức, kinh nghiệm, phương thức, phương pháp cách mạng tạo thành sức mạnh, uy tín giúp Đảng có thể tập hợp lực lượng, tổ chức thực hiện thành công lý tưởng, mục tiêu chính trị của mình. Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc tiến hành cuộc đấu tranh trường kỳ, đầy gian lao, sóng gió chống đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tích luỹ và luôn làm mới mẻ, phong phú kho tàng tri thức cách mạng. Trải nghiệm, tổng kết những thành công và chưa thành công qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng nhiều chông gai, bão táp, Đảng đã đúc kết những công việc quan trọng nhất trong phương thức lãnh đạo của Đảng:

- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;

- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên;

- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị;

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu (5).

Bước vào thời kỳ phát triển mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng chính là nâng cao chất lượng, hiệu quả những công việc cấu thành phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng ba công việc sau đây:

Thứ nhất, xây dựng và không ngừng hoàn thiện đường lối cách mạng, những chủ trương, chính sách lớn - ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, của hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân

Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị phản ánh đậm nét nỗ lực xây dựng, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng. Đại hội đã thảo luận và thông quaCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)-Văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt, trình bày những nhận thức có ý nghĩa nền tảng, những quan điểm cốt lõi của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, nêu rõ mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu, những khâu đột phá để đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh, bền vững trong 10 năm tới. Báo cáo Chính trị nhấn mạnh những nhiệm vụ trọng tâm, những công việc thiết yếu, những giải pháp cần kíp phải triển khai ngay trong 5 năm trước mắt. Những văn kiện quan trọng nói trên được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nghiêm túc và những ý kiến đóng góp tâm huyết, trí tuệ của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Trong quá trình xây dựng, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh của thời đại ngày nay; bám sát thực tiễn đất nước, tôn trọng qui luật khách quan và những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; hết sức tránh cực đoan, bảo thủ, giáo điều và chủ quan, duy ý chí. Đảng luôn cảnh báo và đề phòng sai lầm về đường lối - sai lầm tệ hại và nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng đến sinh mệnh của Đảng và sự phát triển của đất nước.

Thứ hai, tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết, đưa đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực sinh động

Thấm nhuần tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng phương châm: đưa hơi thở của đời sống thực tiễn trở thành sức sống của nghị quyết đảng, đưa nghị quyết đảng trở lại đời sống thành hiện thực sinh động, "sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(6), Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI chủ trương chỉ ban hành nghị quyết về những vấn đề đặc biệt quan trọng, mới nảy sinh, dành thời gian chỉ đạo, tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết những nghị quyết đã có và mới ban hành. Thiết thực, hiệu quả là tư tưởng nổi bật trong công tác lãnh đạo của Đảng hiện nay. Nghiên cứu lý luận chính trị hướng vào phục vụ thiết thực yêu cầu lãnh đạo của Đảng; đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng, tuyên truyền, hướng mạnh về cơ sở, nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu, dự báo chính xác, phát hiện sớm và giải quyết có kết quả những bức xúc về tư tưởng, tâm trạng xã hội, công tác kiểm tra, giám sát, tập trung nắm chắc tình hình thực hiện đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, Điều lệ của Đảng, kịp thời biểu dương, nhân rộng những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, uốn nắn, xử lý những lệch lạc, sai phạm, tiêu cực... Nói đi đôi với làm; nói ít, làm nhiều; kiên quyết chống căn bệnh quan liêu, xa rời thực tiễn, xa rời nhân dân. Đó là những biểu hiện mới, tinh thần mới đang thiết thực góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đưa nhanh tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống của đất nước, dân tộc.

Thứ ba, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, trước hết của người đứng đầu

Sự nghiệp vĩ đại, thành công vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam là thành quả hy sinh phấn đấu của toàn Đảng, của quân dân cả nước, trong đó công lao hàng đầu thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng, thuộc về các chiến sĩ cộng sản tiền bối, các đảng viên trung kiên của Đảng qua các thời kỳ. Nhân dân tin yêu, một lòng đi theo, ủng hộ, bảo vệ Đảng, suy tôn Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất, phần quan trọng vì Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, song trực tiếp và giàu sức thuyết phục nhất chính là vì Đảng có đội ngũ đảng viên ưu tú luôn đứng nơi đầu sóng ngọn gió, chấp nhận đương đầu và chiến thắng những gian nan, hiểm nguy, luôn dĩ công vi thượng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thật sự là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Thực tiễn hào hùng đó đã được nhân dân trân trọng đúc kết thành phương châm hành động "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau"; "Cán bộ nào, phong trào nấy"

Bước vào kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận đảng viên, có cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đã bị tha hoá, biến chất. Tình trạng phai nhạt lý tưởng cách mạng; tật bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tham vọng quyền lực, bè phái, chạy chức, chạy quyền, ăn chơi hưởng lạc... của những đảng viên hư hỏng đã làm suy yếu năng lực lãnh đạo của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận thức sâu sắc hiểm hoạ này, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, xây dựng nền tảng đạo đức trong Đảng, trong toàn xã hội.

Trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm những ưu điểm, hạn chế của Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ X, Đại hội lần thứ XI của Đảng chủ trương đưa việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên, thành nền nếp sinh hoạt trong toàn Đảng. Từng đảng bộ, chi bộ, từng đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, chủ động xây dựng chuẩn mực đạo đức phù hợp theo tấm gương Hồ Chí Minh và kế hoạch thực hiện cụ thể, thiết thực, đưa vào chương trình, nội dung sinh hoạt thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Gắn việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; với cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư… Tổng Bí thư, bí thư và cấp uỷ đảng các cấp trực tiếp chỉ đạo; người đứng đầu các cấp, ban, ngành, cơ quan có chương trình phấn đấu theo những nhiệm vụ chủ yếu được giao, trình bày công khai trước tập thể; định kỳ lấy ý kiến để đóng góp của nhân dân đối với đảng viên ở nơi cư trú và nơi công tác; lấy kết quả học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh làm tiêu chí quan trọng đánh giá, sàng lọc, bố trí cán bộ. Đây là cuộc vận động xây dựng đạo đức sâu rộng nhất, căn cơ nhất, được chuẩn bị và tiến hành công phu nhất trong suốt hơn 80 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thành bại của công việc hệ trọng này sẽ liên quan trực tiếp đến tăng hay giảm năng lực lãnh đạo, vai trò, uy tín của Đảng.

3. Từ mùa Thu năm 1945, sau khi lãnh đạo nhân dân cả nước vùng lên Tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, xây dựng chính quyền dân chủ, nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam trên thực tế, trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, xã hội. Là Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng tất yếu phải bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước, do vậy, năng lực cầm quyền chính là một bộ phận trọng yếu hợp thành năng lực lãnh đạo của Đảng; bản lĩnh cầm quyền chính là thành tố cốt lõi cấu thành bản lĩnh chính trị của Đảng.

Trước những yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng việc nâng cao năng lực, bản lĩnh cầm quyền. Tinh thần đó được thể hiện đậm nét trong các văn kiện Đại hội XI và trong hoạt động thực tiễn của Đảng.

Trước hết, Đảng hình thành và từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ trương và những định hướng lớn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Đại hội XI của Đảng đã kế thừa, phát triển những tư tưởng ban đầu về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu ra tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, và những nhận thức được bổ sung qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X của Đảng để đưa ra một hệ thống quan điểm tương đối hoàn chỉnh về bản chất, phương thức tổ chức thực thi quyền lực; chức năng, nhiệm vụ; nguyên tắc tổ chức, vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Tư tưởng cốt lõi là: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân... Những tư tưởng, quan điểm đó thể hiện sự kiên định chính trị và tư duy sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, truyền thống văn hoá Việt Nam, với qui luật phát triển cách mạng và mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Những tư tưởng, quan điểm này định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng Nhà nước ở Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời định hướng trực tiếp những nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, từng bước kiện toàn Nhà nước trong 5, 10 năm tới.

Thứ hai, Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước

Hơn 25 năm qua, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và những năm gần đây, tham gia trực tiếp, ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế. Tương thích với quá trình đổi mới kinh tế, Đảng đã lãnh đạo từng bước đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước trên nguyên tắc nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hiện nay, Đảng tập trung lãnh đạo tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với quá trình hoàn thiện bộ máy Nhà nước là giảm bớt đầu mối và các tổ chức trung gian; điều chỉnh mô hình tổ chức quản lý nhà nước đơn ngành sang mô hình tổ chức quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; tạo lập sự đồng bộ và quan hệ phối hợp, liên thông giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự đồng bộ, thông suốt trong hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương, cơ sở; phân định rõ mô hình tổ chức quản lý đô thị và mô hình tổ chức quản lý nông thôn...

Đảng đặc biệt quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh quá trình triển khai đồng thời cải cách lập pháp, hành pháp, tư pháp, lấy cải cách hành chính làm khâu đột phá; thực hiện cơ chế phân cấp, phân quyền hợp lý, vừa đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước Trung ương, vừa phát huy vai trò chủ động, tính năng động, sáng tạo của chính quyền địa phương, cơ sở; tách bạch chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phát huy dân chủ, bảo đảm vai trò lãnh đạo tập thể, đồng thời đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước...

Đảng thường xuyên chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quản lý, điều hành đất nước, phục vụ nhân dân.

Đặt phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo Nhà nước nâng cao năng lực dự báo, quản lý, điều tiết kinh tế thị trường; tập trung đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Trước mắt, mối quan tâm hàng đầu của Đảng là lãnh đạo Nhà nước triển khai các giải pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức khắc nghiệt thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu, chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển nhanh trong những năm tiếp theo.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, Đảng khẳng định, phải tôn trọng qui luật vận động của thị trường, mặt khác, Đảng nhấn mạnh, Nhà nước phải chủ động, thường xuyên chăm lo bồi đắp, phát triển các yếu tố xã hội chủ nghĩa theo quan điểm nhất quán: tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay đang phấn đấu thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội: lao động, việc làm, thu nhập, xoá đói giảm nghèo, nhu cầu học tập, chăm sóc sức khoẻ, bài trừ các tệ nạn...

Xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, phát triển văn hoá là một trong ba trụ cột của chiến lược phát triển đất nước, Đảng thường xuyên lãnh đạo Nhà nước chăm lo xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn xây dựng văn hoá với xây dựng con người, gia đình, cộng đồng; coi trọng xây dựng môi trường văn hoá, thể chế và thiết chế văn hoá; đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Tư tưởng nhất quán của Đảng về xây dựng văn hoá là kế thừa, phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá nhân loại, sáng tạo những giá trị văn hoá mới, đưa văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, trở thành nguồn lực nội sinh của phát triển.

Đảng xác định vai trò, trách nhiệm quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang và sự nghiệp quốc phòng-an ninh; lãnh đạo Nhà nước thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc và đường lối đối ngoại của Đảng. Mục tiêu, nhiệm vụ hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước; thực hiện thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, củng cố, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực giữ gìn hoà bình, tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

Lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để thể chế hoá Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng. Chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp phản ánh tầm trí tuệ, sức mạnh và bản lĩnh cầm quyền của Đảng.

Định hướng hoạt động lập pháp, Đảng yêu cầu Nhà nước, trực tiếp là Quốc hội, cần bám sát, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng; nắm chắc, phân tích, đánh giá đúng yêu cầu thực tiễn cuộc sống; đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động lập pháp, đổi mới qui trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật (7).

Sau Đại hội XI, Đảng tập trung lãnh đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược xây dựng pháp luật, trước mắt là nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp hoàn cảnh, yêu cầu thời kỳ mới. Theo định hướng của Đảng, từ nay đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu có đủ những đạo luật cơ bản cần thiết điều chỉnh các quan hệ xã hội, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng, bảo vệ đất nước. Trọng tâm công tác xây dựng pháp luật hướng vào các lĩnh vực: tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường; phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, văn hoá, thông tin; các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo,chính sách xã hội, quốc phòng - an ninh, hội nhập quốc tế,…

Đồng thời với xây dựng pháp luật, Đảng coi trọng lãnh đạo Nhà nước tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, hiệu lực thi hành và bảo vệ pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội và kỷ luật trong bộ máy nhà nước.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ công chức nhà nước có năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, trong lãnh đạo Nhà nước, Đảng chú trọng phát huy vai trò Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời đề cao giáo dục đạo đức xã hội, nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của việc cán bộ, công chức, nhân viên nhà nước nêu gương về đạo đức, làm cho dân phục, dân tin và nghe theo, làm theo. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tuỵ phục vụ nhân dân là khâu trọng yếu trong xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Một mặt, Đảng đổi mới công tác cán bộ, mở rộng dân chủ, hoàn thiện qui trình lựa chọn, tuyển dụng, bố trí cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước; mặt khác, Đảng phát huy vai trò giám sát của nhân dân và thực hiện nghiêm các cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đây là công việc hệ trọng, “là một cuộc chiến đấu chống những cái cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” (8) - một cuộc chiến đấu thử thách năng lực và bản lĩnh cầm quyền của Đảng.

Thứ năm, Đảng tự đổi mới phương thức cầm quyền

Là Đảng cầm quyền, Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo Nhà nước, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo.

Để có căn cứ vững chắc cho quá trình đổi mới phương thức cầm quyền, trong nhiệm kỳ Đại hội X, Trung ương Đảng chủ trương tiến hành thí điểm ở một số địa phương không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; đại hội đảng ở một số cấp địa phương, cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ; nhân dân trực tiếp bầu người đứng đầu chính quyền cấp xã; nhất thể hoá hai chức danh bí thư cấp uỷ và chủ tịch uỷ ban nhân dân. Đại hội XI chủ trương tổng kết việc thí điểm thực hiện các chủ trương trên, lựa chọn các phương án phù hợp, hiệu quả làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới phương thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhất là quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở.

4. Để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, bản lĩnh cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, quan trọng nhất là phấn đấu nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của Đảng. Định hướng xây dựng Đảng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: phải giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch có phẩm chất, năng lực, sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc (9).

Trong những năm trước mắt, Đảng tập trung vào những công việc trọng tâm, vừa cơ bản, vừa cấp bách sau:

- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới;

- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, tăng cường sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng, tạo chuyển biến rõ nét về đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội;

- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị đồng bộ, hợp lý từ trung ương đến cơ sở, trong đó đặc biệt quan tâm kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng;

- Nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên theo yêu cầu của thời kỳ mới, bảo đảm đúng tiêu chuẩn của Điều lệ Đảng;

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, nâng cao chất lượng trong từng khâu của công tác cán bộ; chú trọng xây dựng theo hướng trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành;

- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật; tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng...

- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở (10)...

5. Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, lựa chọn mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội và phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn hợp qui luật, là sự nghiệp mới mẻ, vinh quang nhưng lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Sứ mạng này đặt lên vai các đảng cộng sản; thành bại của đại nghiệp này tuỳ thuộc vào năng lực, bản lĩnh của các đảng cộng sản.

Hơn 80 năm qua, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách và hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội với niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng. Niềm tin ấy toả sáng trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011): "Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo qui luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội (11).

Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước dân tộc, trước lịch sử về sự phát triển đất nước trong hiện tại và tiền đồ của đất nước trong tương lai. Giữa bộn bề muôn vàn công việc quốc gia đại sự, điều mà Đảng luôn luôn tâm niệm, đang và sẽ phải phấn đấu không ngừng chính là thường xuyên chăm lo tự đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và bản lĩnh cầm quyền của Đảng./.

GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương

__________________________________________

(1), (2) (3), (4), (5), (9), (10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.66, 103, 71, 88, 4, 88-89, 90, 255-265, 69.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2009, t.5, tr.290.

(7) Nguyễn Phú Trọng: Tiếp tục chăm lo xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Tạp chí Cộng sản, số 827, 9-2011, tr.3-8.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2009, t.12, tr.505

Theo Tuyengiao

.
.
.
.