Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2022:
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện chuyển đổi số
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới, như Dự thảo Báo cáo chính trị đã nhấn mạnh: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Nhiệm kỳ qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có những yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen. Trên thế giới, toàn cầu hóa, hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho nước ta. Tuy vậy, cạnh tranh căng thẳng trên nhiều lĩnh vực giữa một số nền kinh tế lớn, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ làm ảnh hưởng lớn tới thương mại, đầu tư quốc tế; biến động chính trị, xung đột vũ trang xảy ra ở nhiều nơi, những căng thẳng ở Biển Đông đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực; đại dịch Covid-19 làm xuất hiện cuộc khủng hoảng; kinh tế - xã hội nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu, đã tác động tiêu cực đến nước ta.
Ở trong nước, sau 35 năm đối mới, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước tăng lên; các cơ quan Đảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành, các địa phương có thêm nhiều đầu tư được cải thiện. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vượt qua mọi khó khăn thách thức, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, giữ vững độc lập, chủ quyền đưa đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, ổn định chính trị.
Tại sao phải chuyển đổi số?
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều kinh tế cùng phát triển, thị trường phát triển ngày càng đồng bộ, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại phù hợp với những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, hội nhập quốc tế, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng sâu rộng. Sau nhiều năm thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ khoa học và công nghệ của nền kinh tế được nâng lên, hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng dựa trên khai thác tài nguyên. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện, hiệu quả. Những thành tựu quan trọng của công tác đối ngoại đã làm tăng thêm sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ, một mặt, đòi hỏi phải quán triệt các nội dung, quan điểm trong tầm nhìn đã được nêu trong Cương lĩnh chính trị của Đảng và kế thừa các quan điểm về mục tiêu phát triển đất nước trong các nhiệm kỳ đại hội Đảng; mặt khác, hiện nay trên thế giới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù có những trở ngại do sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ ở một số nước. Đất nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, toàn cầu và khu vực (WTO, WB, IMF, AEC, APEC...), ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương với nhiều quốc gia, các khối kinh tế trên thế giới, trong đó có nhiều hiệp định thế hệ mới với phạm vi cam kết rộng, mức độ cam kết cao. Nước ta đã cam kết tuân thủ nhiều chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc điều chỉnh, bổ sung một số quy định của luật pháp, cơ chế chính sách, tiêu chuẩn, định mức, tiêu chí đánh giá cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế là cần thiết và hợp lý.
Tại Việt Nam, quá trình “chuyển đổi số” đã bắt đầu diễn ra, nhất là trong những ngành như: tài chính, giao thông, du lịch… Chính phủ và chính quyền các cấp đang nỗ lực thúc đẩy quá trình “chuyển đổi số”. Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ (KH&CN), làm cho KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Đến năm 2020, KH&CN Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội - 2016, trang 28).
Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định mục tiêu “…Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2025 là nước đang phát triển, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, đạt thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao”. Để đạt các mục tiêu trên, Nghị quyết Đại hội đã chỉ ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là “…đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế”. Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá của đất nước cũng nhấn mạnh “…đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế…” (Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng).
Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Trên cơ sở đó, Chính phủ đã có nhiều hành động thể hiện sự quyết tâm thực hiện chuyển đổi số quốc gia: Quyết định 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030” đã xác định rõ tầm nhìn là “Việt Nam trở thành quốc gia số, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp” và chỉ rõ mục tiêu “Chương trình chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu”.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực hiện chuyển đổi số và nhận thấy chuyển đổi số là xu thế tất yếu với các doanh nghiệp, Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương lần thứ III, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng trên cơ sở năng suất lao động, hàm lượng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực của doanh nghiệp về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại để nâng cao giá trị gia tăng cho những sản phẩm chính, cốt lõi của doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp… Nâng cao tiềm lực, trình độ khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Phấn đấu mỗi tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thực sự là một trung tâm đổi mới sáng tạo. Chủ động dẫn dắt, tích cực tham gia và đi đầu chuyển đổi nền kinh tế số, tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nghiên cứu, triển khai số hóa trong các quy trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp thông minh”.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã lãnh đạo các đảng ủy trực thuộc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành động để triển khai ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại; áp dụng nhiều giải pháp sáng tạo, đột phá và đến nay đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực. Từ năm 2014, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/ĐUK về nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối, trong đó yêu cầu đưa ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào quản trị doanh nghiệp, thành lập bộ phận CNTT chuyên trách trong các doanh nghiệp; Nghị quyết số 10-NQ/ĐUK về nghiên cứu, phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp. Các cấp uỷ đảng trong Đảng bộ Khối đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động của doanh nghiệp, phân công lãnh đạo chủ chốt của cấp uỷ, doanh nghiệp trực tiếp phụ trách về CNTT, xây dựng đội ngũ cán bộ CNTT và bộ phận chuyên trách về CNTT. Một số đơn vị trong lĩnh vực ngân hàng, viễn thông, hàng không, năng lượng đã xây dựng và triển khai chiến lược chuyển đổi số; có đơn vị đã thành lập ban chỉ đạo và bộ phận chuyên trách về công tác chuyển đổi số của doanh nghiệp; chủ động thay đổi văn hóa làm việc, áp dụng các mô hình quản trị hiện đại, đào tạo về chuyển đổi số cho đội ngũ lao động và gắn chiến lược chuyển đổi số với chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 52-NQ/TW Ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, Nghị quyết và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương lần thứ III, nhiệm kỳ 2020 - 2025, đồng thời xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, từ yêu cầu thực tiễn trên, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã xây dựng Đề án và ban hành Nghị quyết chuyên đề số 02-NQ/ĐUK ngày 07/6/2021 về “Thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Cả nước đang bước vào công cuộc chuyển đổi số với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia toàn xã hội, vì vậy, sự chủ động tham gia CMCN 4.0 và chuyển đổi số yêu cầu phải có quan điểm, mục tiêu, thể chế phù hợp, trước hết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt, ứng dụng và phát triển các công nghệ mới, các mô hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ mới trong tất cả các lĩnh vực, đi đôi với ngăn ngừa và khắc phục các tác động tiêu cực. Đặc biệt, trong đó phần lớn các doanh nghiệp trong Khối là các đơn vị nằm trong danh sách đứng đầu của các ngành nghề tham gia, có tiềm lực tài chính mạnh, một số có trình độ khoa học công nghệ vượt trội so với các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, năng lượng, bưu chính, viễn thông - công nghệ thông tin, giao thông vận tải. Các doanh nghiệp điện lực, viễn thông - công nghệ thông tin, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính trong Khối đã có kinh nghiệm triển khai và có những đóng góp nhất định trong quá trình chuyển đổi số quốc gia tại Việt Nam, góp phần tạo nền tảng hình thành Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số.
Trước yêu cầu đó, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối nói riêng với tiềm năng, kinh nghiệm và lợi thế sẵn có, các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối đã và đang nắm bắt nhanh cơ hội này và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong doanh nghiệp, bước đầu tiếp cận, sử dụng công nghệ số vào thực tế để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Chiến lược chuyển đổi số của các doanh nghiệp
Chuyển đổi số đang là một trong những xu hướng phát triển chung, tất yếu của hầu hết các tổ chức, các doanh nghiệp trong thời đại cuộc CMCN lần thứ tư hiện nay. Hành lang về chuyển đổi số doanh nghiệp nhà nước đã rộng mở nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp bắt kịp với xu thế mới. Trong Khối doanh nghiệp Trung ương đã có một số đơn vị đạt được kết quả bước đầu trong việc xây dựng triển khai chiến lược chuyển đổi số, tiêu biểu như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tổng công ty Viễn thông MobiFone, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam,…
Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ các đơn vị có chiến lược chuyển đổi số hoạch định chỉ chiếm 27,27% tổng số doanh nghiệp trong Đảng ủy Khối, cụ thể: Có một vài doanh nghiệp trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp chưa thực hiện ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số tại đơn vị để tạo nền tảng cho các đơn vị xây dựng ban hành và thực thi chiến lược. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp trên có một số đơn vị đã ban hành chiến lược công nghệ thông tin giai đoạn 2021-2025, như Tập đoàn Cao su Việt Nam… và một số doanh nghiệp đang trong quá trình xây dựng và dự kiến ban hành chiến lược chuyển đổi số trong những năm tiếp theo; 03/06 doanh nghiệp đang tìm kiếm đối tác tư vấn cùng đồng hành trong công tác hoạch định chiến lược (Tổng công ty Lương thực miền Bắc, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, Tổng công ty Cà phê Việt Nam). Hiện tại đã có các đơn vị trong nhóm ngành bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin đã thực hiện ban hành Nghị quyết như: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Tổng công ty Viễn thông MobiFone,… làm cơ sở ban hành các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động; còn một số đơn vị đã ban hành chiến lược và chuẩn bị ban hành Nghị quyết. Trong xây dựng chiến lược chuyển đổi số các đơn vị hiện có cách tiếp cận khách nhau, trong khi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và MobiFone tiếp cận theo hướng thuê tư vấn nước ngoài để tiếp cận các tri thức và mô hình quản trị hiện đại tích lũy từ lâu của các đơn vị trên thì Tổng công ty Bưu điện Việt Nam tiếp cận theo hướng phối hợp với Cục Tin học hóa - Bộ Thông tin và Truyền thông trong công tác chuyển đổi số. Trong đó, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam tiếp cận triển khai từ 2016, MobiFone và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam triển khai làm việc với tư vấn nước ngoài và Cục tin học hóa từ 2020.
Còn đối với nhóm ngành năng lượng, phần lớn các đơn vị đã xây dựng chiến lược chuyển đổi số, còn một số đơn vị đang trong quá trình xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Trong đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã xây dựng đề án chuyển đổi số với các công việc và nội dung cụ thể, đồng thời xác định việc thực hiện kế hoạch chuyển đổi số trong Tập đoàn là công việc thường xuyên và có tính cấp bách, EVN đặt mục tiêu xây dựng Tập đoàn Điện lực Việt Nam trở thành doanh nghiệp số vào năm 2025, trong đó chuyển đổi số hoàn thành năm 2022; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) trong giai đoạn tới, cùng với công tác triển khai gói thầu “Tư vấn xây dựng chiến lược Chuyển đổi số PVN”, dự kiến lộ trình ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác thực hiện chuyển đổi số đến 09/2021; Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) tiếp tục tổ chức thực hiện chiến lược CNTT, chiến lược tự động hóa đã xây dựng. Nhóm ngành sản xuất, công nghiệp, xây dựng, có một số đơn vị đã xây dựng kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2020 - 2025; các đơn vị khác thành lập Ban chỉ đạo về CNTT để thực hiện chuyển đổi số như Tổng công ty Thép Việt Nam (VnSteel), Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD); VnSteel, Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem), Tổng công ty Sông Đà đã có kế hoạch thuê tư vấn để cùng đồng hành với các đơn vị trong chuyển đổi số năm 2021. Tuy nhiên về cơ bản các đơn vị đều chưa có hoạch định chiến lược tổng thể về chuyển đổi số.
Nhóm ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các đơn vị đã có chiến lược/kế hoạch chuyển đổi số. Trong đó, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã ban hành Nghị quyết về xây dựng lộ trình triển khai và danh mục các sáng kiến thực hiện chuyển đổi ngân hàng số; Ngân hàng TMCP Đầu tư & phát triển Việt Nam (BIDV) đã hoàn tất dự án tư vấn chiến lược triển khai số hóa giai đoạn 2019 - 2025, tầm nhìn 2030 với các lộ trình cụ thể; Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đã xây dựng chiến lược chuyển đổi số; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã ban hành Kế hoạch hành động của Agribank triển khai thực hiện Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng. Trong đó tập trung vào các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu như: Chuyển đổi số để chuyển đổi trải nghiệm, đưa khách hàng là trọng tâm để phát triển giải pháp tài chính toàn diện cho khách hàng; chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả nội bộ ngân hàng; đặt dữ liệu là tài sản của ngân hàng, khai thác, làm giàu để nâng cao năng lực quản trị, kinh doanh; nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động, thử nghiệm với những công nghệ mang tính đột phá, giúp tiết kiệm tài nguyên, chi phí và tăng cường hiệu quả khai thác. Các doanh nghiệp trong nhóm ngành giao thông vận tải hiện đang xây dựng và ban hành chiến lược về chuyển đổi số; trong đó có Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Đề án Chiến lược xây dựng và phát triển công nghệ thông tin.
Với mục tiêu, giai đoạn 2021 - 2025 và xa hơn là tới năm 2030, nền kinh tế thế giới và Việt Nam sẽ tiếp tục có đà phát triển nhanh nhờ kế thừa những thành quả từ giai đoạn trước và sự phục hồi mạnh sau khi kiểm soát được đại dịch Covid-19. Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu với các quốc gia, các doanh nghiệp trên toàn cầu và có tác động quan trọng đến tăng trưởng GDP quốc gia, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tại nước ta trong giai đoạn 2021 - 2030, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối đã thành lập ban chỉ đạo chuyển đối số nhằm tham mưu cho HĐTV/HĐQT về việc ban hành chiến lược, chính sách chuyển đổi số cho toàn hệ thống trong đó Trưởng Ban Chỉ đạo là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV và bên cạnh đó cũng thiết lập Bộ phận chuyên trách về CNTT nhằm hỗ trợ tư vấn và triển khai các vấn đề liên quan tới công nghệ cho toàn hệ thống. Công tác triển khai được theo dõi sát sao gắn liền với thay đổi văn hóa làm việc, áp dụng các mô hình quản trị hiện đại, xây dựng năng lực chuyển đổi số cho đội ngũ lao động với mục tiêu rõ ràng trên cơ sở gắn chiến lược chuyển đổi số là công cụ thực hiện chiến lược kinh doanh.
Tuy nhiên, nhiều đơn vị gặp khó khăn do ngân sách dành cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT còn hạn chế, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho ứng dụng và phát triển CNTT chưa đồng bộ, một số nơi còn lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa; nguồn nhân lực còn hạn chế về trình độ CNTT, việc tuyển dụng nhân lực CNTT trình độ cao còn khó khăn, ngân sách cho đào tạo, thu hút nhân lực CNTT chưa tương xứng với nhu cầu. Nhiều đơn vị thiếu chiến lược tiếp cận chuyển đổi số tổng thể mang tính hệ thống, việc triển khai ứng dụng CNTT còn thực hiện rời rạc, cục bộ ở một số đơn vị, bộ phận, trong một số chuyên ngành; hoặc chiến lược tiếp cận không gắn liền với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù các đơn vị đã có các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo các đơn vị trực thuộc triển khai các chương trình hành động, tuy nhiên không đánh giá được mức độ tác động cũng như kết quả tiếp nhận thông tin của người lao động. Nhiều đơn vị người lãnh đạo còn chưa quan tâm và nhận thức đúng về chuyển đổi số. Về ứng dụng các thành tựu của CMCN 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh chưa tổng thể, mới chỉ dừng ở mức nghiên cứu, tìm hiểu, thử nghiệm do chi phí đầu tư quá lớn, thiếu hụt chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, thiếu hụt dữ liệu đầu vào cho các hệ thống phân tích.
Giải pháp thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối
Bước sang giai đoạn 2021 - 2025 và xa hơn là tới năm 2030, nền kinh tế thế giới và Việt Nam sẽ tiếp tục được tạo đà phát triển nhanh nhờ kế thừa những thành quả từ giai đoạn trước. Hoà bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày càng rõ nét. Trong đó cạnh tranh công nghệ giữa các nước ngày càng quyết liệt hơn nhằm dành vị thế dẫn dắt trong CMCN lần thứ 4. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, có khả năng kéo dài; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới.
Chuyển đổi số đã dần trở thành xu hướng tất yếu với các quốc gia, doanh nghiệp trên toàn cầu và có tác động ngày càng lớn đến tăng trưởng GDP, năng suất lao động và cơ cấu việc làm. Theo nghiên cứu của Microsoft và IDG tại khu vực Châu Á - TBD, từ năm 2017, các sản phẩm và dịch vụ số đóng góp 6% GDP, tỷ lệ này là khoảng 25% năm 2019 và dự đoán trong năm 2021 sẽ rơi vào khoảng 60%; chuyển đổi số làm tăng năng suất lao động, các công việc trong khu vực sẽ bị biến đổi theo các năm. Kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, một số hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)… đòi hỏi phải cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa.
Để tiếp tục có những bước phát triển đột phá trong giai đoạn mới, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, vượt ra khỏi bẫy thu nhập trung bình, bắt buộc chúng ta phải có những nỗ lực, quyết tâm mới, phải bứt phá để thực hiện khát vọng Việt Nam hùng cường. Một trong những giải pháp căn cơ, nền tảng nhất là chúng ta phải chuyển đổi số mạnh mẽ, đi đầu khu vực trong cuộc CMCN 4.0. Chuyển đổi số là vấn đề về thay đổi nhận thức và phương thức quản lý, vận hành, không phải chỉ là vấn đề về công nghệ. Với tiềm năng, kinh nghiệm và lợi thế sẵn có, các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối thuận lợi trong nắm bắt nhanh cơ hội này và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong doanh nhiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế; mở ra cơ hội đột phá phát triển chưa từng có, vô giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối nói riêng.
Ngoài ra, việc chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp trong Khối được hiểu là sự tích hợp các công nghệ kĩ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp, tận dụng công nghệ số để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Vì vậy, chuyển đổi số cần gắn liền với chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển của doanh nghiệp và thực hiện nhiệm vụ đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Đảng, Nhà nước; nâng cao hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh và đưa doanh nghiệp bắt kịp với xu thế thay đổi mô hình, phương thức kinh doanh trên thế giới; gắn với mục tiêu đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và phát triển doanh nghiệp bền vững.
Bên cạnh đó, cấp ủy các cấp cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, Chính phủ, Đảng ủy Khối về chuyển đổi số. Người đứng đầu cấp ủy chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực phụ trách; tổ chức phổ biến, quán triệt chủ trương, nghị quyết của Đảng, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng trực thuộc, đảng viên, người lao động về sự cần thiết và tính cấp thiết của chuyển đổi số; chỉ đạo tái cấu trúc, đổi mới mô hình hoạt động, điều hành và chuyển đổi mô hình nghiệp vụ từ truyền thống sang môi trường số để nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của đơn vị mình; khuyến khích cán bộ, đảng viên, người lao động sử dụng ví điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cần có kế hoạch, lộ trình, chương trình triển khai cụ thể; thiết lập mục tiêu rõ ràng về chuyển đổi số. Thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số nhằm đảm bảo sự lãnh đạo triển khai thông suốt trên toàn hệ thống doanh nghiệp, đơn vị, trong đó trưởng ban chỉ đạo là bí thư đảng ủy, người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị. Tổ chức tinh gọn bộ máy, áp dụng các mô hình quản trị hiện đại trong quá trình chuyển đổi số theo định hướng tại Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 30/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” và Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Lựa chọn, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực có đủ năng lực, phẩm chất, tư duy đổi mới, sáng tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao để tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin hiện có, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu để đội ngũ này trở thành các chuyên gia nòng cốt tham mưu về chuyển đổi số của doanh nghiệp, đơn vị.
Kế thừa định hướng của Đại hội XII, bổ sung những nhân tố động lực mới, Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng hoàn thiện quan điểm về động lực phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Báo cáo nêu rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững…”, thì việc chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu khách quan, là cơ hội và yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương. Đây cũng là công cụ để thực hiện đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, sức cạnh tranh, vị thế dẫn dắt trong nền kinh tế, góp phần thực hiện thành công chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện chuyển đổi số quốc gia, xây dựng kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, như trong Báo cáo chính trị Đại hội XIII đã nhấn mạnh: “Cuộc ở Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”. Nhận định mới này rất quan trọng trong việc định hướng tận dụng thời cơ do những thành tựu của cuộc cách mạng này đem lại, đồng thời vượt qua những khó khăn, thách thức để phát triển đất nước theo hướng tăng tốc, đi tắt, đón đầu.
Lan Hương, Chi bộ Ban Tuyên giáo
Cơ quan Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương