Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2023
Kỳ 1: Đảng bộ Vinatex tiếp tục xây dựng và nâng cao văn hóa doanh nghiệp trong điều kiện mới
Tại hội nghị Văn hoá toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, tiếp thu và học tập lời dạy của Bác ngay trong doanh nghiệp, trách nhiệm của văn hóa doanh nghiệp (VHDN) cũng sẽ phải là “soi đường cho toàn thể người lao động đi”. Quan điểm của Đảng về xây dựng VHDN, văn hóa trong kinh doanh là sự kế thừa, phát triển các quan điểm về xây dựng văn hóa trong kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra từ rất sớm. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị bằng một luận điểm tiêu biểu: Văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị, nghĩa là tác động biện chứng và thúc đẩy lẫn nhau giữa các lĩnh vực cơ bản này của đời sống xã hội. Xác định tầm quan trọng và sự cần thiết của VHDN trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng về xây dựng và thực hiện VHDN trong Khối. Việc nghiên cứu, xây dựng và lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết chuyên đề có ý nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng cộng đồng doanh nghiệp hùng mạnh, từ đó, xây dựng nền kinh tế thịnh vượng, bền vững; thực hiện tốt các nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng và Đại hội lần thứ III nhiệm kỳ 2020-2025 của Đảng bộ Khối đặt ra.
Người lao động dệt may thi đua trong lao động. |
Văn hóa doanh nghiệp soi đường cho doanh nghiệp và người lao động đi
Xây dựng VHDN là quá trình lâu dài, kiên nhẫn qua nhiều thế hệ, lại liên tục được bổ sung cho phù hợp tình hình mới. Chính vì vậy, việc xác lập một hướng đi, với các giá trị cốt lõi trong văn hoá từng doanh nghiệp và văn hoá Vinatex rất quan trọng, đảm bảo doanh nghiệp không chệch hướng, phải làm đi làm lại, khó khăn cho việc hình thành một cách có hệ thống VHDN khi thiếu sự ổn định, lâu dài.
Với đặc thù phần lớn các doanh nghiệp được thành lập trên 50 năm, Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) mang trong mình những “gene” văn hoá riêng biệt và mỗi DN là một tổ chức có tính độc lập cao. Quá trình 28 năm hình thành và phát triển của Tập đoàn Dệt May Việt Nam bên cạnh việc tổ chức, cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho tinh gọn, hiệu qủa hơn, còn là quá trình cọ sát giữa văn hoá riêng của từng doanh nghiệp, lựa chọn các điểm chung tốt để phát triển cùng với xây dựng những khía cạnh văn hoá mới đáp ứng các yêu cầu của thị trường thay đổi. Đến nay, với chiến lược được lựa chọn là xây dựng VINATEX - MỘT ĐIỂM ĐẾN CUNG ỨNG GIẢI PHÁP THỜI TRANG XANH TRỌN GÓI đặt ra nhu cầu bức thiết là cần xác địch và xây dựng một hệ thống VHDN chung trong toàn Tập đoàn, đảm bảo đáp ứng được chuẩn mực tổng quát của toàn chuỗi cung ứng nội bộ, cung ứng ra thị trường thế giới với một hình ảnh nhận diện chung nhất, hiệu quả nhất. Văn hoá Tập đoàn bao trùm, mang tính phổ quát lên văn hoá các doanh nghiệp thành viên, trong khi vẫn dung hợp các nét văn hoá riêng tích cực của từng doanh nghiệp. Duy trì được bản sắc, tính đặc thù của từng doanh nghiệp mà không đối nghịch giữa các doanh nghiệp với nhau và với văn hoá chung của Tập đoàn.
Các đặc điểm của VHDN
- VHDN là trật tự xã hội được ngầm hiểu trong tổ chức, định hình thái độ và hành vi theo những cách thức phong phú và bền vững.
- Tiêu chuẩn văn hoá chỉ rõ hành vi nào được doanh nghiệp chấp nhận, khuyến khích, hành vi nào cần hạn chế, thậm chí bị ngăn cản, hay gạt bỏ.
- VHDN phải mang các đặc tính: Phổ biến: được đại đa số người lao động trong doanh nghiệp hiểu rõ và thực hiện một cách tự nguyện, tự giác. Lan toả: có khả năng lan toả nhanh trong nội bộ, nhất là với các thành viên mới. Nhanh chóng hoà nhập được với tổ chức trên nền tảng VHDN chung. Bền vững: các giá trị cốt lõi của văn hoá mang tính dài hạn, bền vững, nhân văn phù hợp với quá trình hình thành cần rất nhiều thời gian của văn hoá. Ngầm định: VHDN là ứng xử tự nhiên trong doanh nghiệp, không thể văn bản hoá, hướng dẫn được hết toàn bộ các hành vi. Chính vì vậy, cơ bản cần đảm bảo có tính ngầm định, chi phối phương thức ứng xử một cách tự nhiên trong nội bộ doanh nghiệp.
- VHDN có tầng nổi là các mục tiêu, chiến lược, tầm nhìn, kết quả đạt được, cùng với các quy tắc được thể chế như thu nhập, khen thưởng, kỷ luật, quy tắc ứng xử (code of conduct) và tầng chìm chính là các nội dung không được văn bản hoá nhưng bền vững, nằm ở tầm sâu trong suy nghĩ của mỗi nhân viên như chia sẻ niềm tin, sự gắn bó với doanh nghiệp và đồng nghiệp.
Sự khác biệt giữa VHDN và văn hoá quốc gia
Văn hóa quốc gia |
Văn hoá tổ chức |
Cốt lõi là tập trung vào giá trị. |
Cốt lõi là tập trung vào thực tiễn. |
Được thúc đẩy bởi những cảm xúc mạnh mẽ và sự khác biệt trong các giá trị cá nhân. |
Được thúc đẩy bởi các thực tại hữu hình và dễ tiếp cận hơn, như thiết lập mục tiêu và chủ thể. |
Thay đổi chậm. |
Trọng tâm cốt lõi mang tính hữu hình nên có thể thay đổi nhanh hơn. |
Phụ thuộc vào cách các cá nhân liên hệ với nhau dựa trên giá trị của họ. |
Phụ thuộc vào mối liên hệ của các thành viên trong tổ chức với công việc của họ, với nhau và với thế giới bên ngoài. |
Phân biệt cá nhân với nhau. |
Phân biệt các tổ chức với nhau. |
Hai chiều kích của VHDN tương ứng với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chiều kích tương tác giữa con người trong doanh nghiệp: Phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh (SXKD) mà chiều kích tương tác giữa các nhân viên trong doanh nghiệp mang tính độc lập hay tính phụ thuộc lẫn nhau. Thái cực độc lập nghiêng về tự quản, cá nhân cạnh tranh. Trong khi khía cạnh phụ thuộc nghiêng về quản lý mối quan hệ, phối hợp nhóm, hoà hợp trong nhóm.
Chiều kích về cách ứng xử của doanh nghiệp trước sự thay đổi: chạy từ cực ổn định tới linh hoạt. Trong đó ổn định đề cao tính hệ thống quyền lực, quy tắc, cấp bậc, kiểm soát. Còn linh hoạt dựa trên cơ sở khuyến khích sáng tạo, đánh giá trên kết quả, không nặng về thủ tục, quy trình.
Tám nhân tố cần quan tâm khi định vị văn hoá trên trục toạ độ với 2 chiều là tương tác con người và ứng phó với thay đổi. Trong đó hướng về phía trên trục tung, linh hoạt là nhân tố văn hoá “học tập liên tục để đổi mới sáng tạo” và văn hoá “quản trị theo mục tiêu”; về phía gốc trục tung - ổn định đấy chính là nhân tố “an toàn” và “quyền lực”. Về phía trục hoành, nếu ở phía độc lập là khía cạnh văn hoá đánh giá theo “kết quả” cá nhân, nhóm và tương ứng là hưởng thụ thì về phía doanh nghiệp có sự phụ thuộc giữa các nhân sự cao lại là “chăm sóc” và “trật tự thực hiện các quy trình”. Từ định vị các nhân tố văn hoá cần xây dựng theo 2 chiều kích cho thấy một bài học việc lựa chọn các khía cạnh cốt lõi cần tương ứng với mô hình sản xuất kinh doanh (SXKD), việc lựa chọn văn hoá không phù hợp với kinh doanh, hoặc các nét văn hoá trái ngược nhau để xây dựng thì không thể thành công. Ví dụ, chọn văn hoá hưởng thụ theo kết quả cá nhân trong khi phương thức SXKD lại mang tính phụ thuộc lẫn nhau cao.
Giá trị cốt lõi của văn hoá mỗi doanh nghiệp là khác nhau trong cách thể hiện, nhưng quy tụ chung lại trong điều kiện thị trường cạnh tranh hiện nay bao gồm các giá trị cốt lõi chủ yếu:
- Niềm tin tổ chức cao: có thể nói xây dựng niềm tin trong tổ chức trở thành khía cạnh văn hoá chủ đạo là quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn nhất, sâu rộng nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng và duy trì VHDN. Việc có được niềm tin chiến lược giữa tất cả các cấp trong doanh nghiệp thực sự là năng lực cạnh tranh gốc của doanh nghiệp. Niềm tin xoá đi các rào cản giữa con người, giữa các phòng ban trong tổ chức và đều hướng tới mục tiêu chung của doanh nghiệp.
- Sự hợp tác: hợp tác giữa các cá nhân trong tổ chức, các phần của tổ chức với nhau và với bên ngoài là hoạt động để duy trì sự sống của doanh nghiệp, khía cạnh văn hoá hợp tác được xây dựng sẽ là cơ sở cho hoạt động chung của doanh nghiệp. Đồng thời, cũng cần liên tục trang bị cập nhật kỹ năng hợp tác, làm việc tập thể mới phù hợp với biến đổi của thị trường và công nghệ.
- Cải tiến liên tục: văn hoá để chống bị đào thải trong một thị trường quá năng động, cần thực hiện thường xuyên liên tục để tối ưu hoá các quy trình xử lý công việc cũng như sáng tạo ra các sản phẩm mới.
- Tập trung vào khách hàng hay khách hàng là trung tâm: cạnh tranh tạo điều kiện cho khách hàng có quá nhiều lựa chọn, dễ dàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của đối thủ khác nếu trải qua một trải nghiệm không thích thú với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Do đó giá trị cốt lõi tập trung vào khách hàng cũng là một khía cạnh mang tính sống còn với doanh nghiệp.
- Học tập và sửa chữa khắc phục nhanh từ các sai lỗi: Coi sai lỗi là bài học kinh nghiệm, từ đó sửa chữa một cách tích cực nhất. Đây được coi là phương pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực bản thân.
Đánh giá mức độ trưởng thành của các khía cạnh văn hoá
Người ta sử dụng một biểu đồ rada với 4 khu vực chính là các mục tiêu tổng quát, tính nhất quán của tổ chức, sự tham gia của các thành viên, và khả năng thích ứng với các thay đổi. Trong 4 khu vực này mỗi khu vực lại có 3 KPIs tổng cộng sơ đồ rada sẽ đánh giá 12 KPIs trong doanh nghiệp về mức độ trưởng thành với các khía cạnh văn hoá cốt lõi. Mười hai khía cạnh đó là: Tầm nhìn, mục tiêu, định hướng chiến lược, khả năng tạo ra sự thay đổi, sự tập trung vào khách hàng, khả năng học tập của tổ chức, uỷ quyền, làm việc nhóm, phát triển năng lực, giá trị cốt lõi, sự đồng thuận, khả năng phối hợp và tích hợp lực lượng.
Đo lường 12 KPIs thể hiện mức độ trưởng thành của VHDN cũng là phương thức để thực hiện cải cách liên tục, mức độ trưởng thành VHDN có đặc điểm riêng là được chuyển hoá ngay thành hành động quản lý và kinh doanh.
Các trụ cột văn hoá Vinatex
Vinatex đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện, điều chỉnh văn hoá của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện toàn cầu hoá, cách mạng công nghiệp 4.0, sự sắp xếp lại chuỗi cung ứng sau Covid -19, các khái niệm mới về kinh tế tuần hoàn và các tiêu chuẩn ESG.
Với tính chất là văn hoá phổ quát, có thể ứng dụng chung cho tất cả các đơn vị thành viên, đồng thời sẽ được bổ sung các nội dung đặc thù tại từng doanh nghiệp. Văn hoá Vinatex được xây dựng trên nền tảng đặc điểm của doanh nghiệp thâm dụng lao động, trình độ lao động ở mức trung bình, tính chất cạnh tranh khốc liệt với các DN trên toàn thế giới, các đơn vị nằm ở các địa bàn khác nhau về cả điều kiện kinh tế, văn hoá, tôn giáo, sắc tộc. Do đó, Vinatex lựa chọn 6 trụ cột chính để xây dựng văn hoá của mình gắn với điều kiện sản xuất kinh doanh đó là hiểu việc mình làm, giỏi việc mình làm, yêu việc mình làm, tự hào vì thành quả tập thể, không đổ lỗi và học tập, cải tiến liên tục. Các trụ cột này phù hợp với tất cả các đơn vị thành viên sản xuất trong chuỗi cung ứng dệt may, đồng thời mỗi thành viên sẽ bổ sung các khía cạnh văn hoá của riêng doanh nghiệp mình. Ví dụ, bên cạnh các trụ cột văn hoá cấp Tập đoàn, thì tại Công ty Mẹ sẽ xây dựng thêm 2 khía cạnh bổ sung đó là Đổi mới sáng tạo và chấp nhận rủi ro có cân nhắc.
Để xây dựng được văn hoá chung của doanh nghiệp mỗi cá nhân trong doanh nghiệp phải được liên tục thực hành theo 12 nhân tố tạo ra giá trị đích thực cho các cá nhân, đó là: CHÍNH TRỰC (INTEGRITY): mỗi nhân sự, toàn tổ chức đều đề cao, tuân thủ sự liêm chính trong hoạt động; TRUNG TÍN (LOYALTY): doanh nghiệp thâm dụng lao động, tỷ lệ thay đổi lao động cao, để phát triển bền vững rất cần sự trung thành của mỗi người; CỐNG HIẾN (CONTRIBUTION): sẵn sàng cống hiến cho doanh nghiệp; CÓ ĐI CÓ LẠI (RECIPROCITY): cung cấp và cũng được tiếp nhận sự giúp đỡ của đồng nghiệp. Xây dựng văn hoá phục vụ lẫn nhau trong tổ chức; ƯU TIÊN (PRIORITY): biết phân loại và xác định thứ tự ưu tiên của danh mục công việc, xử lý vấn đề ưu tiên trong điều kiện nguồn lực hạn chế; ĐA DẠNG (DIVERSITY): chấp nhận và dung hợp được sự đa dạng trong tổ chức, tạo môi trường cho nhiều luồng ý kiến khác nhau được tồn tại; HY SINH BẢN THÂN (PERSONAL SACRIFICE): xác định lợi ích cá nhân sau lợi ích chung của doanh nghiệp; HỌC TẬP LIÊN TỤC (CONTINOUS LEARNING): liên tục có ý thức học tập, đổi mới, cập nhật trong mỗi cá nhân; PHỤC VỤ (GIVING OF THE SELF): làm việc với tinh thần phục vụ cao, không chỉ gói gọn trong mô tả công việc; RÈN MỚI BẢN THÂN (SELF – RENEWAL): luôn rèn mới, tạo năng lực mới, trải nghiệm mới cho mình; TRÁCH NHIỆM (RESPONSIBILITY): dám chịu trách nhiệm với công việc được giao; DẠY ĐỂ HỌC (TEACHING FOR LEARNING): tham gia đào tạo thế hệ sau.
Triển khai Nghị quyết 06-NQ/ĐUK, ngày 28/4/2023 của BCH Đảng bộ Khối DNTW và kế hoạch hướng dẫn số 1173, ngày 12/5/2023 của Đảng ủy Tập đoàn về “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng về xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp trong Khối DNTW” và cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn của Trung ương, Đảng ủy Tập đoàn đã quán triệt đến các chi bộ, đến từng cán bộ, đảng viên về mục tiêu, tầm quan trọng của xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp trong Cơ quan Tập đoàn, từ đó chuyển hóa thành hành động cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Chương trình hành động của Đảng ủy Tập đoàn và cá nhân người đứng đầu về xây dựng và thực hiện VHDN đã được xây dựng kịp thời với mục tiêu cốt lõi: Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến cán bộ, đảng viên, người lao động nhằm hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực, đảm bảo tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới…
Có thể nói, xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công sở là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, các tổ chức chính trị - xã hội và của cán bộ, đảng viên, người lao động trong Đảng bộ Tập đoàn; cần được cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch công tác của cấp ủy, tổ chức đảng, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị và các tổ chức chính trị - xã hội. Đưa việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện VHDN, văn hoá công sở của các cấp uỷ Đảng là một trong những nội dung đánh giá, xếp loại tổ chức Đảng và Đảng viên hằng năm. Tổ chức sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chuyên đề của chi bộ về việc thực hiện các quy chế, quy định văn hoá công sở, văn hóa doanh nghiệp.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức công tác xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp; triển khai đồng bộ công tác tuyên truyền; phát huy tính sáng tạo của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại các đơn vị; trở thành nhiệm vụ thường xuyên, gắn với thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, người lao động.
Cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo nhân rộng các mô hình, điển hình tiêu biểu, cách làm hay trong thực hiện văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công sở; khuyến khích cán bộ, đảng viên, người lao động giao lưu, chia sẻ những giải pháp, cách làm hiệu quả trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.
6 trụ cột văn hoá Vinatex. |
7 trụ cột văn hoá Công ty Mẹ Vinatex. |
Một doanh nghiệp phát triển bền vững phải dựa trên một sức mạnh VHDN vừa có những giá trị cốt lõi, vừa tạo được động lực ứng phó với thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vượt qua được thử thách chính là nhờ văn hoá sáng tạo, đổi mới, chịu trách nhiệm, hy sinh cho tập thể và tự hào với thành quả chung. Vinatex kinh doanh trong ngành dệt may là ngành cạnh tranh rất khốc liệt, lại đang đứng trước giai đoạn cần đổi mới nhanh đáp ứng yêu cầu của kinh tế tuần hoàn với các vấn đề mới chưa có tiền lệ. Chính lúc này, chúng ta rất cần một nền tảng VHDN vững vàng, đủ sức và ánh sáng sáng tạo để “soi đường cho doanh nghiệp đi”. |
Còn nữa...
Lê Tiến Trường - Nguyễn Kiều Giang, Đảng uỷ Tập đoàn Dệt may Việt Nam