.
.

Giải pháp thúc đẩy thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng đối với đồng bào DTTS

Thứ Ba, 14/08/2018|17:51

Đến quý I/2018, các chương trình cho vay dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đạt doanh số cho vay 3.094 tỷ đồng; doanh số thu nợ đạt 942 tỷ đồng; xóa nợ 29 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt 2.122 tỷ đồng, với 201.017 hộ còn dư nợ. Trong đó, nợ quá hạn là 90,2 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 4,2%; nợ khoanh 83 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 3,9%. Nguồn vốn tín dụng phục vụ đồng bào DTTS đã góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giai đoạn 2005 - 2016 đã giảm từ 22% xuống còn 8,38%, năm 2017 còn 6,8%.

Ghi nhận từ các chương trình tín dụng chính sách đối với hộ đồng bào DTTS

Đến nay, NHCSXH quản lý trên 20 chương trình tín dụng chính sách và các dự án, tổng dư nợ đạt 177.735 tỷ đồng, với 8,4 triệu món vay của trên 6,7 triệu khách hàng đang còn dư nợ. Trong đó, trên 1.478 ngàn khách hàng là hộ đồng bào DTTS đang thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại NHCSXH, với tổng dư nợ 43.376 tỷ đồng (chiếm 24,4%/tổng dư nợ của NHCSXH), dư nợ bình quân một hộ đồng bào DTTS đạt hơn 29 triệu đồng (trong khi bình quân chung tất cả các hộ là 26 triệu đồng/hộ). Theo thống kê của NHCSXH, tỷ lệ hộ đồng bào DTTS vay vốn tín dụng chính sách/tổng số khách hàng tại các vùng miền của toàn quốc thì cao nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc với 54%, tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 18%; vùng Tây Nguyên 15%; vùng Đồng bằng sông Cửu Long 10% và thấp nhất lần lượt là vùng Đông Nam Bộ 1,8% và vùng Đồng bằng Sông Hồng 1,5%.

Đến ngày 31/3/2018, các chương trình cho vay dành riêng cho đồng bào DTTS theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Doanh số cho vay: 3.094 tỷ đồng; doanh số thu nợ: 942 tỷ đồng; xóa nợ: 29 tỷ đồng; tổng dư nợ: 2.122 tỷ đồng, với 201.017 hộ có dư nợ. Trong đó, nợ quá hạn: 90,2 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 4,2%; nợ khoanh: 83 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 3,9%.

Góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giai đoạn 2005-2016 đã giảm từ 22% xuống còn 8,38%, năm 2017 còn 6,8%.

Nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách chủ yếu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi trâu, bò, xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình nước sạch, vệ sinh môi trường, hỗ trợ kinh phí học tập... đã góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho hàng triệu lượt hộ, giúp cho hộ nghèo, đặc biệt là đối với các địa bàn của huyện nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hộ đồng bào DTTS tự tin và tăng dần vị thế trong xã hội, từng bước quen dần với cơ chế thị trường.

Tín dụng chính sách góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho hàng triệu lượt hộ, giúp cho hộ nghèo, đặc biệt là đối với các địa bàn của huyện nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hộ đồng bào DTTS tự tin và tăng dần vị thế trong xã hội, từng bước quen dần với cơ chế thị trường
Tín dụng chính sách góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho hàng triệu lượt hộ, giúp cho hộ nghèo, đặc biệt là đối với các địa bàn của huyện nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hộ đồng bào DTTS tự tin và tăng dần vị thế trong xã hội, từng bước quen dần với cơ chế thị trường

NHCSXH đã tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách trong toàn hệ thống, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc, là những nơi đặc biệt khó khăn, có nhiều hộ nghèo. Mặt khác, NHCSXH đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các cấp và 04 tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động tín dụng chính sách, đảm bảo phục vụ nhân dân tốt hơn.

Thông qua mô hình tổ chức và phương thức chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của NHCSXH, đã góp phần là “cầu nối” giữa cấp ủy chính quyền địa phương các cấp với quần chúng nhân dân, trong đó có đồng bào DTTS. Qua đó, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng tại các địa phương.

Giải quyết những vấn đề căn bản thiết yếu của cuộc sống trong khu vực đồng bào DTTS và giúp cho hộ đồng bào DTTS dần nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý vốn để dần vươn lên thoát nghèo; giúp hộ đồng bào DTTS nghèo tiếp cận được nguồn vốn của Chính phủ từ đó ổn định đời sống, tạo việc làm, tăng thu nhập, phát triển sản xuất; giúp cho đời sống giảm bớt khó khăn, giảm bệnh tật, thất học, các tệ nạn xã hội... bảo đảm an sinh xã hội. Ngoài ra các hộ đồng bào DTTS sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn cũng được vay vốn để sản xuất kinh doanh, từng bước vươn lên phát triển kinh tế gia đình, làm giàu trên chính quê hương mình. Đặc biệt, là thông qua sử dụng vốn tín dụng ưu đãi đã tác động đến nhận thức, giúp đồng bào DTTS tự tin, tăng dần vị thế trong xã hội.

Tạo nguồn lực giúp các địa phương khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng tỉnh và toàn vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước gắn với yêu cầu phát huy tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào DTTS trong phát triển sản xuất, nâng cao đời sống.

Với vai trò là công cụ để thực hiện chính sách giảm nghèo của Chính phủ, NHCSXH luôn chỉ đạo tập trung ưu tiên nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo, hộ đồng bào DTTS tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo... còn nghèo nàn lạc hậu, sản xuất tự cung, tự cấp được tiếp cận với nguồn vốn cho vay ưu đãi của Chính phủ để yên tâm sản xuất kinh doanh từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững.

Nguồn vốn tín dụng ưu đãi do NHCSXH đầu tư cho gần 100% hộ đồng bào DTTS tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, tại vùng sâu, vùng xa, có những hộ đã vay vốn từ 2 - 3 chương trình tín dụng ưu đãi. Nguồn vốn từ tín dụng chính sách đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế hộ gia đình nói chung và hộ đồng bào DTTS nói riêng. Kết quả này đã được Quốc hội, các Bộ ngành, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ghi nhận, đánh giá cao.

Một số khó khăn giai đoạn vừa qua

Việc bố trí nguồn vốn đôi khi còn chưa kịp thời, chưa đảm bảo nguồn vốn để thực hiện theo kế hoạch được duyệt. Đồng thời, mức cho vay tối đa từng chương trình nhìn chung còn thấp, chưa phù hợp với tình hình thực tế.

Việc xác nhận đối tượng được thụ hưởng chính sách đối với cơ sở cấp xã đôi lúc còn gặp khó khăn do hàng năm hộ nghèo vẫn phát sinh tăng - giảm gồm (hộ tái nghèo; hộ mới tách ở riêng, hộ mới xây dựng gia đình thuộc diện nghèo); các đối tượng này đều phát sinh sau thời điểm điều tra hộ nghèo theo tiêu chí của Bộ Lao động Thương binh và xã hội.

Hiệu quả phối hợp giữa các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,… của các tổ chức Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội với hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH chưa được quan tâm thường xuyên, nhất là khu vực đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn, dân trí thấp; hộ vay vốn chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, đất đai để chăn nuôi gia súc nên hiệu quả vốn tín dụng đầu tư thấp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn vay của một bộ phận người vay là chưa cao, khó khăn trong việc thoát nghèo bền vững.

Ngoài ra, còn một bộ phận hộ đồng bào DTTS sử dụng vốn vay chưa hiệu quả hoặc có tư tưởng ỷ lại, trông chờ, không chịu làm ăn và trả nợ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHCSXH. Một số hộ đồng bào DTTS vay vốn đi xuất khẩu lao động chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc, ý thức chấp hành kỷ luật còn thấp, chưa có tác phong công nghiệp, bỏ về nước trước hạn, vi phạm hợp đồng lao động hoặc một số doanh nghiệp dịch vụ chiếm dụng vốn của người lao động...

Hộ đồng bào DTTS chủ yếu sống tại nơi có địa hình phức tạp, diện tích núi cao nhiều, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp, phân bố phân tán nên rất khó cho tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên canh để tạo ra sản phẩm hàng hóa trên quy mô lớn dẫn đến giá thành cao và khó tiêu thụ.

Một số tồn tại triển khai thực hiện chương trình cho vay đối với đồng bào DTTS nghèo

Trình độ, tập quán sản xuất và việc sử dụng vốn vào sản xuất của một bộ phận hộ DTTS hiệu quả còn thấp; sản phẩm sản xuất ra không tập trung, khó tiêu thụ, lợi nhuận thấp, đồng tiền thu được không bù đắp đủ chi phí sản xuất dẫn đến khả năng mất vốn cao.

Đối tượng vay vốn là hộ DTTS, hầu hết sinh sống tại những nơi có địa hình hiểm trở, khó khăn, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thời tiết, biến đổi khí hậu, thiên tai: lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn...; giá cả biến động, dẫn đến hộ vay sản xuất - kinh doanh thua lỗ, không còn khả năng trả nợ NHCSXH (đặc biệt là một số tỉnh tại khu vực Tây Nam bộ như: Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang. Đây là khu vực tập trung nhiều hộ đồng bào Khmer sinh sống).

NHCSXH đã kịp thời thực hiện nhiều biện pháp xử lý nợ như: gia hạn nợ tối đa, khoanh nợ, xóa nợ để bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi bị rủi ro bất khả kháng; song, vẫn còn những món vay không gia hạn nợ được phải chuyển nợ quá hạn, những hộ vay này quá nghèo, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, không có khả năng trả nợ, không đủ điều kiện xem xét xử lý theo quy định.

Một số giải pháp và kiến nghị trong thực hiện chính sách tín dụng đối với đồng bào DTTS trong thời gian tới

Thủ tướng Chính phủ ổn định và duy trì nguồn vốn nhà nước đầu tư cho tín dụng chính sách và bố trí nguồn vốn kịp thời đối với các chương tình tín dụng chính sách mới được ban hành để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả chương trình. Đồng thời, cần có chính sách tín dụng đặc thù cho vùng, địa phương để ưu tiên, khuyến khích đồng bào định canh, định cư tại chỗ, vừa giúp cho việc phát triển kinh tế bền vững và vừa giữ gìn bản sắc dân tộc.

UBND các tỉnh, thành phố hàng năm bổ sung nguồn vốn từ Ngân sách tỉnh để ủy thác qua NHCSXH cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn, theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

Chính quyền địa phương các cấp, các ngành cần gắn kết hơn nữa trong việc đầu tư chương trình tín dụng chính sách này vào mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương; cần thực hiện tốt chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư..., chuyển giao khoa học kỹ thuật, có định hướng thị trường tiêu thụ sản phẩm... để giúp hộ dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; nhân rộng các mô hình thoát nghèo theo đúng tinh thần Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về việc giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Trong đó, lưu ý đến việc tiêu thụ sản phẩm cho hộ dân để giải quyết một phần vấn đề “ly nông bất ly hương” để đồng bào yên tâm làm giàu trên chính mảnh đất quê hương của mình.

Mặt trận Tổ quốc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, đồng thời quan tâm tập trung, huy động các nguồn lực vào NHCSXH để thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền các chủ trương của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo, người đồng bào DTTS và các đối tượng chính sách khác.

Các tổ chức chính trị - xã hội, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc hoạt động của Hội cấp dưới, đặc biệt là nhiệm vụ của Tổ tiết kiệm và vay vốn, nhất là kiểm tra việc sử dụng vốn của hộ vay. Phối hợp cùng với NHCSXH trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình tín dụng nhận ủy thác, đào tạo tập huấn cho cán bộ tổ chức chính trị - xã hội, Ban quản lý Tổ tiết kiệm và vay vốn về kỹ năng kiểm tra, giám sát, theo dõi quản lý vốn vay, nhằm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội ở cơ sở.

TS. Bùi Sỹ Lợi (Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội)

 

.
.
.
.