Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội
Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII sáng nay, 21/5, thừa ủy quyền của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Chính phủ trình bày Báo cáo bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2011, tình hình thực hiện nhiệm vụ 4 tháng đầu năm và những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành trong những tháng còn lại của năm 2012.
BÁO CÁO
BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2011,
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ 4 THÁNG ĐẦU NĂM
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO,
ĐIỀU HÀNH TRONG NHỮNG THÁNG CÒN LẠI CỦA NĂM 2012
(Báo cáo của Chính phủ do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
trình bày tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII)
___________
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các vị khách quý,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào, cử tri cả nước,
Theo Chương trình kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012; Báo cáo đánh giá bổ sung về kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011, tình hình triển khai thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 và 12 báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực cụ thể khác. Các Báo cáo đó đã đề cập toàn diện tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và những vấn đề cần giải quyết trong quá trình triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội. Trong Báo cáo này, thay mặt Chính phủ và được sự ủy quyền của đồng chí Thủ tướng, tôi xin trình bày khái quát một số nội dung chủ yếu về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2011, tình hình thực hiện nhiệm vụ 4 tháng đầu năm 2012 và những giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong những tháng tiếp theo để phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã được Quốc hội thông qua.
I. BÁO CÁO BỔ SUNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011
1. Những kết quả chủ yếu
Tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XIII, căn cứ vào kết quả 9 tháng đầu năm và dự báo những tháng cuối năm, Chính phủ đã báo cáo ước thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011. Đến nay, tổng hợp kết quả thực hiện cả năm cho thấy về cơ bản chúng ta đã đạt được mục tiêu tổng quát nêu trong Nghị quyết của Quốc hội; trong tổng số 22 chỉ tiêu chủ yếu, có 15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; trong đó có 6 chỉ tiêu đạt cao hơn so với số liệu đã báo cáo Quốc hội[1]. Những kết quả chủ yếu trong năm 2011 như sau:
Một là, kinh tế nước ta vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 5,89%, mặc dù thấp hơn mức tăng 6,78% của năm 2010 nhưng là cố gắng lớn của toàn Đảng, toàn dân trong điều kiện phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức cả ở trong và ngoài nước, trong đó công nghiệp và xây dựng tăng 5,53% (số đã báo cáo Quốc hội là 7%), dịch vụ tăng 7% (số đã báo cáo là 6,4%), nông, lâm, thủy sản tăng 4% (số đã báo cáo là 2,3%). Nhờ có giải pháp phù hợp và sự nỗ lực sáng tạo của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc phát huy tiềm năng, lợi thế, ngành nông nghiệp đã nổi lên là khu vực đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của nền kinh tế và ổn định xã hội. Sản lượng lúa đạt mức kỷ lục 42,4 triệu tấn, lĩnh vực nông sản, thủy sản xuất khẩu đạt 23 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu trên 7 triệu tấn gạo, trị giá khoảng 3,7 tỷ USD. Các ngành du lịch, viễn thông phát triển mạnh[2].
Hai là, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản được bảo đảm, kinh tế vĩ mô có bước chuyển biến tích cực, nhờ những giải pháp chỉ đạo điều hành quyết liệt, lạm phát đã từng bước được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã giảm dần từ quý III. Tình hình tiền tệ, tín dụng và cán cân thanh toán quốc tế được kiểm soát. Tổng phương tiện thanh toán tăng 12,37% (kế hoạch là 15 - 16%). Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 14,41% (kế hoạch là dưới 20%). Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung ưu tiên cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, các lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Cán cân thanh toán tổng thể thặng dư 2,65 tỷ USD, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia (năm 2010 thâm hụt 3,1 tỷ USD).
Thu ngân sách nhà nước tăng 18,4%, chi ngân sách nhà nước tăng 13,8% so với dự toán. Bội chi ngân sách giữ ở mức 111.500 tỷ đồng, bằng 4,4% GDP thực hiện[3] (giảm 0,9% so với dự toán). Dư nợ công, dư nợ Chính phủ, dư nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát, bảo đảm trong giới hạn an toàn[4].
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng 34% GDP[5]. Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã rà soát, điều chuyển 81,5 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư phát triển để tập trung cho các dự án quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng. Giải ngân vốn ODA đạt 3,65 tỷ USD, tăng 3% so với năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 96,9 tỷ USD, tăng 34,2% so với năm 2010 (số đã báo cáo Quốc hội là 31,6%). Nhập siêu 9,84 tỷ USD bằng 10,16% tổng kim ngạch xuất khẩu (số đã báo cáo là 10,5%), là mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Trong điều kiện thị trường khó khăn, giá cả biến động, kết quả đó là sự cố gắng lớn.
Ba là, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được quan tâm, bảo đảm; các lĩnh vực xã hội có một số mặt tiến bộ. Trong bối cảnh ngân sách khó khăn, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên bố trí tăng thêm nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội[6], các chương trình mục tiêu quốc gia[7]. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 đã giảm 2,44% (số đã báo cáo Quốc hội là 1,5%); tại các huyện nghèo mức giảm bình quân 4,5% (số đã báo cáo là 4%)[8]. Tạo được 1,54 triệu việc làm mới. Thực hiện điều chỉnh tăng lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức; tăng lương tối thiểu vùng đối với các doanh nghiệp và quy định thống nhất lương tối thiểu đối với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các cấp, các ngành đã có nhiều quan tâm chăm lo đời sống nhân dân, nhất là đối với người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đã tổ chức tốt hơn việc phòng chống, khắc phục kịp thời những hậu quả do thiên tai, dịch bệnh gây ra, giúp nhân dân vùng bị thiên tai ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất; đồng thời tích cực chỉ đạo thực hiện các giải pháp lâu dài, căn bản hơn.
Đến hết năm 2011, cả nước có 57/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng ở tất cả các cấp học. Công tác đào tạo nghề được đẩy mạnh, tuyển mới 1,86 triệu lượt học viên (tăng 6,4%).
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có một số mặt tiến bộ: tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 16,8% (chỉ tiêu Quốc hội là 17,3%); mức giảm tỷ lệ sinh đạt kế hoạch là 0,2%o; số giường bệnh /1vạn dân đạt kế hoạch là 21,1 giường. Công tác phòng chống dịch bệnh đạt một số kết quả tích cực.
Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển công nghệ thông tin được tích cực triển khai đã góp phần tăng năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và quản lý Nhà nước. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được tập trung chỉ đạo. Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái.
Bốn là, quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Tiếp tục giữ vững và phát triển một bước thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững hoà bình, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo. Đã kết hợp và phát huy tốt công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước. Sự phối hợp giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh đạt nhiều kết quả tốt.
Công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại tố cáo được quan tâm chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở và tiếp tục có những chuyển biến tích cực.
2. Những hạn chế, yếu kém chủ yếu
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, nổi lên là:
Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát tuy đã được kiềm chế trong những tháng cuối năm, nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả năm vẫn ở mức cao là 18,13%; lãi suất còn cao; việc thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, chính sách tiền tệ chặt chẽ tuy đã góp phần quan trọng giúp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nhưng cũng để lại những hệ quả tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Ngay từ giữa năm 2011, Chính phủ đã có các Nghị quyết chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã báo cáo và Quốc hội đã có Nghị quyết số 08/2011/QH13 ngày 06 tháng 8 năm 2011 về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân, tuy nhiên đến cuối năm 2011 tình hình vẫn còn rất nhiều khó khăn; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất tăng 24,7% so với năm 2010, số lao động mất việc làm tăng; thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản giảm sút và gặp rất nhiều khó khăn.
Chất lượng tăng trưởng và khả năng cạnh tranh chưa được cải thiện, năng suất lao động xã hội thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn yếu kém; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, chậm được khắc phục; hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp; nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Ứng dụng khoa học, công nghệ ở nhiều ngành còn hạn chế. Sản phẩm có thương hiệu trên thị trường quốc tế còn ít; chưa khai thác, phát triển tốt thị trường trong nước, nhất là việc thu mua và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ...
Các lĩnh vực xã hội còn những yếu kém, chậm được khắc phục, nhất là về chất lượng giáo dục đào tạo, khám chữa bệnh. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, tình trạng lãng phí còn rất lớn; tai nạn và ùn tắc giao thông, cháy, nổ phương tiện giao thông, mất an toàn vệ sinh thực phẩm, sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, tình trạng vỡ nợ tín dụng, các vụ án hình sự nghiêm trọng... gây những bức xúc trong xã hội. Các vụ khiếu kiện đông người kéo dài tuy có giảm nhưng vẫn còn nhiều; thông tin về một số vụ việc thiếu chính xác, gây thiệt hại đối với sản xuất; công tác xử lý, thực thi pháp luật còn chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Công tác bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém, tình trạng ô nhiễm ở nhiều lưu vực sông, khu công nghiệp, làng nghề và một số khu vực của các thành phố lớn còn rất nghiêm trọng. Quản lý đất đai, tài nguyên còn thiếu chặt chẽ, đất đai chưa được khai thác tốt để tạo nguồn lực cho phát triển.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2012
Bước vào năm 2012 kinh tế thế giới nói chung đang trên đà phục hồi nhưng còn diễn biến khó lường; thị trường thế giới khó khăn, giá lương thực, thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản biến động phức tạp. Trong nước, kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường trong nước thu hẹp, sức mua giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất còn cao; số doanh nghiệp bị giải thể, đình đốn sản xuất tăng cao (đặc biệt là khối doanh nghiệp liên quan đến xây dựng, bất động sản), nhiều lao động mất việc làm. Bên cạnh đó rét đậm, rét hại kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân.
Ngay từ đầu năm, triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 với mục tiêu tổng quát là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Trong đó, trọng tâm chỉ đạo điều hành là thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, bắt đầu từ tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong 4 tháng đầu năm 2012 đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả bước đầu.
Lạm phát được kiềm chế. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) đã giảm từ giữa năm 2011 và giảm mạnh trong những tháng gần đây, CPI tháng 1 tăng 1%, tháng 2 tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16% và tháng 4 tăng 0,05%, 4 tháng đầu năm CPI chỉ tăng 2,6%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Các giải pháp tài khoá thắt chặt, tiền tệ chặt chẽ; tăng cường quản lý chi tiêu công; công tác quản lý giá cả, thị trường được tập trung chỉ đạo đã góp phần kiềm chế lạm phát.
Mặt bằng lãi suất đã giảm dần, tỷ giá ổn định, cán cân thanh toán được cải thiện[9]. Trần lãi suất tiền gửi đã được điều chỉnh giảm từ 14% xuống còn 12%; lãi suất vay tín dụng đã giảm so với đầu năm, xu thế này đang được chỉ đạo đẩy nhanh và linh hoạt theo biến động của thị trường và diễn biến của lạm phát. Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện chính sách tín dụng hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, chương trình đầu tư nhà ở xã hội, qua đó góp phần giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, cải thiện niềm tin của thị trường. Vốn tín dụng chính sách đã được thực hiện đến các xã, phường trên toàn quốc, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đến ngày 30 tháng 4 năm 2012 đạt gần 107.000 tỷ đồng, tăng 2,9% so với cuối năm 2011, trong đó chương trình cho vay học sinh, sinh viên tăng trên 2.000 tỷ đồng, chương trình cho vay hộ nghèo tăng gần 540 tỷ đồng.
Việc tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại đang được triển khai khẩn trương, đã phân nhóm để có biện pháp quản lý thích hợp; mức độ an toàn và thanh khoản của hệ thống ngân hàng bước đầu được cải thiện. Tình trạng “đô la hóa” và “vàng hóa” đã được kiềm chế.
Xuất khẩu tăng cao, nhập siêu giảm mạnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm ước đạt trên 33,4 tỷ USD, tăng 22,1%; kim ngạch nhập khẩu ước 33,6 tỷ USD, tăng 4,4%; nhập siêu 176 triệu USD, bằng khoảng 0,53% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ những năm qua,[10] góp phần tăng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức khoảng 9 tuần nhập khẩu. Đạt được kết quả này trong bối cảnh suy giảm về giá và sức mua trên thị trường thế giới càng thể hiện nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp, người sản xuất và các ngành, các cấp.
Sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng trở lại. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 4 tháng đầu năm tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2011, đặc biệt 2 tháng gần đây sản xuất công nghiệp đang có xu hướng phục hồi tích cực (tháng 3 tăng 6,5%, tháng 4 tăng 7,5%, riêng công nghiệp chế biến tăng lần lượt là 8,6% và 9,3%).
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2012 tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước[11]. Chính phủ đã chỉ đạo mua tạm trữ 1 triệu tấn lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long để hỗ trợ sản xuất và giảm bớt khó khăn cho nông dân. Sản lượng thủy sản 4 tháng tăng 3,7%; việc tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ các tàu công suất lớn đánh bắt xa bờ đã góp phần giúp ngư dân bám biển, tăng sản lượng khai thác[12].
Khu vực dịch vụ phát triển khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm ước tăng 21,6% so với cùng kỳ. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 2,5 triệu lượt người, tăng 22,9%. Bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển mạnh[13]. Việc phóng thành công vệ tinh Vinasat 2 đánh dấu thêm một bước phát triển mới, góp phần hiện đại hóa hạ tầng viễn thông của nước ta.
An sinh xã hội, ưu đãi người có công tiếp tục được quan tâm chỉ đạo với nhiều biện pháp thiết thực. Nhiều chính sách xã hội tiếp tục được thực hiện như: Hỗ trợ các hộ thiếu đói[14]; hỗ trợ về bảo hiểm y tế, về giá điện, về nhà ở, về tín dụng cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất; hỗ trợ các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn; đào tạo và dạy nghề cho lao động nông thôn; tích cực triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới…; tăng mức lương tối thiểu cho cán bộ, công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, quy định về chế độ phụ cấp, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội cho cán bộ xã đã nghỉ việc; tiếp tục đổi mới các chính sách về y tế dự phòng, bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh và viện phí. Chính sách ưu đãi người có công tiếp tục được hoàn thiện, nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo được quan tâm chỉ đạo, thực hiện theo các chương trình kế hoạch đã đề ra từ đầu năm và đạt kết quả khả quan. Nhiều chương trình văn hoá, thể dục thể thao, lễ hội được tổ chức tốt hơn, theo hình thức xã hội hoá thu hút được sự đóng góp tích cực của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư, góp phần quảng bá du lịch và hình ảnh của đất nước. Tiếp tục triển khai Chiến lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của cả nước và của các ngành, địa phương, đào tạo nghề cho lao động nông thôn; phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tập trung đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, bồi dưỡng phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục (thực hiện phụ cấp thâm niên cho nhà giáo, bảo lưu chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo được điều động làm công tác quản lý giáo dục). Đã tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh các cơ sở đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo đại học. Chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ công tác phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS, đấu tranh ngăn chặn tội phạm buôn bán, vận chuyển tàng trữ ma túy; chú trọng điều trị cho người nghiện các chất ma túy dạng thuốc phiện bằng Methadone.
Trật tự an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nên tình hình quý I năm 2012 đã được cải thiện trên cả ba tiêu chí: Số vụ tai nạn giao thông giảm 22,8%, số người chết giảm 19,2% và số người bị thương giảm 26,3% so với cùng kỳ năm 2011.
Công tác thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh, nhất là thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, các chủ trương, chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước. Các thành viên Chính phủ đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân. Chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời được thực hiện thường kỳ trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, cùng nhiều hình thức đối thoại khác được tổ chức, góp phần giải đáp kịp thời những băn khoăn lo lắng của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội.
Công tác cải cách hành chính, tin học hóa quản lý nhà nước được đẩy mạnh. Việc tổng kết Hiến pháp 1992 của Chính phủ được thực hiện đúng chương trình và yêu cầu đề ra. Công tác phòng chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại tố cáo, thanh tra chuyên đề về đất đai, doanh nghiệp nhà nước... được tập trung chỉ đạo gắn với việc khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI.
Bên cạnh những kết quả trên đây, tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức lớn.
Đã xuất hiện những dấu hiệu suy giảm tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm 2012 chỉ đạt 4%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2011 (5,57%) và năm 2010 (5,84%). Trong đó công nghiệp, xây dựng chỉ tăng 2,94%[15].
Việc thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, chính sách tiền tệ chặt chẽ đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nhưng cũng để lại hệ quả là làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất vay còn cao, nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận và hấp thụ vốn; chi phí đầu vào lớn, sản phẩm tiêu thụ chậm, tồn kho cao[16], dẫn đến quy mô sản xuất phải thu hẹp, nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể, lao động mất việc làm tăng, gây sức ép lớn đến ổn định xã hội và đời sống của nhân dân. Trong 4 tháng đầu năm 2012, cả nước có trên 17,7 nghìn doanh nghiệp đã làm các thủ tục giải thể và ngừng hoạt động, tăng khoảng 9,5% so với cùng kỳ[17].
Tuy lạm phát giảm mạnh nhưng lãi suất vay ngân hàng vẫn còn cao. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng gia tăng. Nhập khẩu giảm mạnh, nhất là khối doanh nghiệp trong nước. Việc giảm nhập khẩu nguyên liệu, vật tư sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu.
Buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng chưa giảm, làm thất thu ngân sách, gây thêm khó khăn cho sản xuất, xâm phạm lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đời sống nhân dân ở nhiều vùng vẫn còn khó khăn, tình hình an ninh, trật tự xã hội ở nhiều nơi vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý vi phạm chưa nghiêm[18].
Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm chống người thi hành công vụ. Tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi; xuất hiện nhiều vụ khiếu kiện đông người phức tạp, nhất là về đất đai; việc bảo đảm an toàn các công trình thủy điện, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông ở một số thành phố lớn, vẫn là những vấn đề bức xúc xã hội.
III. NHỮNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH TRONG NHỮNG THÁNG CÒN LẠI CỦA NĂM 2012
Theo nhiều dự báo, kinh tế thế giới đang có những dấu hiệu tích cực nhưng vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Tình hình kinh tế - xã hội trong nước còn nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh còn tiềm ẩn, nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn; lãi suất tín dụng còn cao; áp lực tăng giá của một số loại hàng hóa là đầu vào của sản xuất sẽ tiếp tục gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh cũng như điều hành kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, có thể thấy rằng một số lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước, nhất là các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản chế biến, điện tử… vẫn đang có mức tăng khá. Đây chính là những yếu tố quan trọng cần phát huy, tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 mà các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra đồng thời xuất phát từ tình hình thực tiễn khó khăn của nền kinh tế trong những tháng gần đây, Chính phủ xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô để tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững; từng bước thực hiện có kết quả chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư, đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả các giải pháp thiết thực, phù hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là về vốn, mặt bằng, nhân lực, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu theo các cơ chế, chính sách đã ban hành, tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Đặc biệt cần điều chỉnh giảm lãi suất vay phù hợp với mức giảm của lạm phát; tăng khả năng vay vốn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện việc kéo dài thời hạn nộp thuế, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài đối với một số đối tượng doanh nghiệp; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư nhà nước; đồng thời trình Quốc hội xem xét miễn giảm thêm một số loại thuế. Tăng cường thu hút, giải ngân các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Triển khai áp dụng các giải pháp xử lý nợ phù hợp đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển nhưng đang gặp khó khăn tạm thời (cơ cấu lại nợ, giãn nợ, thay đổi thời hạn, lãi suất…). Xoá bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo đảm lạm phát mục tiêu năm 2012 khoảng 8 - 9%, tạo tiền đề cho việc kiềm chế lạm phát xuống mức thấp hơn trong những năm sau, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc và sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong trung và dài hạn. Cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo quan trọng này trong hành động của mỗi cấp, mỗi ngành. Thực hiện lành mạnh hoá tài chính quốc gia theo hướng: Phấn đấu thực hiện bội chi ngân sách nhà nước năm 2012 theo đúng Nghị quyết của Quốc hội và giảm dần trong những năm tiếp theo; tiếp tục quản lý, giám sát chặt chẽ nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp tục có giải pháp hỗ trợ phù hợp đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, có lợi thế, có thị trường và có khả năng cạnh tranh; tăng cường kiểm định chất lượng hàng xuất khẩu… đồng thời có các giải pháp linh hoạt nhằm tranh thủ cơ hội tăng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng và thị trường đang có triển vọng phục hồi. Tập trung phát triển thị trường trong nước, nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua, tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn. Tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hàng Nhà nước còn quản lý giá đi đôi với việc tăng cường quản lý thị trường, giá cả, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; ngăn chặn tình trạng chuyển giá, trốn, lậu thuế, găm hàng và thao túng thị trường giá cả. Thực hiện tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng để giảm giá thành sản phẩm, thay đổi mẫu mã phù hợp, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tập trung nguồn lực phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Chuẩn bị tốt các yếu tố giống, phân bón, thuốc trừ sâu, phổ biến kỹ thuật nuôi trồng mới, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các công trình phòng chống lụt bão, thiên tai, tăng cường các biện pháp phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi, kết hợp với bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hai là, thực hiện tốt nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế phân cấp quản lý đầu tư theo hướng vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của cả nước, của ngành, vùng, vừa bảo đảm lợi ích của địa phương cả trong ngắn, trung và dài hạn. Chính phủ đang khẩn trương xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn để trình Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2012.
Thực hiện có kết quả lộ trình cơ cấu lại hệ thống tài chính, ngân hàng mà trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả kinh doanh và bảo đảm an toàn của cả hệ thống; thực hiện các giải pháp xử lý phù hợp đối với nhóm ngân hàng yếu kém, đồng thời bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền. Thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán và các dịch vụ tài chính, đảm bảo công khai, minh bạch, tạo kênh huy động vốn dài hạn, bền vững cho nền kinh tế.
Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước để khu vực doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức hợp lý, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ được giao. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính; công khai, minh bạch kết quả kinh doanh, tình hình tài chính. Tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, chức năng giám sát của chủ sở hữu. Đổi mới phương thức quản lý, thực hiện có hiệu quả cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tốt tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước cũng góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cần tập trung rà soát, hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ và liên kết giữa các loại quy hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý phát triển theo quy hoạch của các ngành, địa phương, bảo đảm sự kết hợp giữa quy hoạch ngành với quy hoạch vùng. Rà soát, đánh giá thực trạng để có giải pháp khai thác và phát huy hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu.
Quan tâm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu cầu xã hội, nâng cao hiệu quả chuyển dịch lao động gắn với tăng năng suất lao động xã hội. Triển khai quyết liệt các chương trình đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm quốc gia, thị trường khoa học công nghệ để phát huy vai trò quan trọng của khâu đột phá này trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.
Ba là, thực hiện tốt hơn việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường.
Khẩn trương xây dựng chương trình hành động để triển khai có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”. Tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả, đúng tiến độ các chương trình mục tiêu quốc gia trong các lĩnh vực xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ giảm nghèo bền vững, nhất là đối với các huyện nghèo, các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt hơn chính sách đối với người có công. Tăng cường tạo việc làm cho người lao động, giải quyết kịp thời các chế độ an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đối với lao động mất việc làm. Thực hiện tốt các giải pháp phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hỗ trợ kịp thời nhân dân vùng bị thiên tai sớm ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất. Tăng cường kiểm tra, giám sát để bảo đảm sử dụng các nguồn lực đúng mục đích, hiệu quả, tránh lãng phí.
Khẩn trương ban hành và thực hiện Chiến lược giáo dục và Chiến lược dạy nghề đến năm 2020; tiếp tục thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ cho giáo viên, ký túc xá sinh viên; đẩy mạnh phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi; triển khai có hiệu quả đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao. Tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, chủ động phòng chống kịp thời các dịch bệnh nghiêm trọng, HIV/AIDS. Tập trung giải quyết có hiệu quả tình trạng quá tải ở các bệnh viện, nâng diện bao phủ của bảo hiểm y tế gắn với đổi mới phương thức quản lý. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể gắn với phát triển du lịch, tăng cường công tác bình đẳng giới, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cho các cơ sở nghiên cứu, dự báo về thiên tai, biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực dự báo thời tiết, khí tượng thủy văn phục vụ sản xuất và đời sống. Kiểm soát chặt chẽ việc quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản gắn với các yêu cầu về bảo vệ môi trường; kiên quyết đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép, không gia hạn, bổ sung hoặc cấp mới giấy phép khai thác tài nguyên, khoáng sản đối với các doanh nghiệp vi phạm hoặc không đáp ứng các yêu cầu quy định về bảo vệ môi trường.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện đồng bộ chương trình cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020; khẩn trương hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương; nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động công vụ; tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, gắn phân cấp với tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là trong các lĩnh vực quản lý đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách,...
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước gắn với đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về một số giải pháp cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 3, khóa X, Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật, nhất là các vụ việc mà dư luận xã hội và cử tri cả nước quan tâm. Tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo trên tinh thần vừa bảo vệ lợi ích hợp pháp của người dân, công khai minh bạch, đúng pháp luật, vừa giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Xử lý dứt điểm những vụ việc tồn đọng kéo dài, hạn chế để xảy ra những vụ khiếu kiện mới phức tạp, nhất là trong quá trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Năm là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là trên các vùng biển đảo của Tổ quốc. Tiếp tục hợp tác và đấu tranh, giải quyết các khác biệt, tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế. Hợp tác xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng, gắn với việc phân giới cắm mốc. Thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị; đẩy mạnh thực hiện các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em một cách quyết liệt, hiệu quả. Bằng các giải pháp đồng bộ, phấn đấu thực hiện vượt mức các chỉ tiêu của Năm an toàn giao thông quốc gia 2012.
Mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),… đưa quan hệ hợp tác với các nước đối tác đi vào chiều sâu, có hiệu quả; triển khai thực hiện các cam kết quốc tế và tích cực tham gia đàm phán các thỏa thuận thương mại mới (như Hiệp định thương mại Thái Bình Dương - TPP, Hiệp định thương mại với EU).
Sáu là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội cao trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc tuyên truyền và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm. Xử lý nghiêm minh các hành vi đưa tin sai sự thật, gây tâm lý bất ổn trong xã hội, làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân.
Làm tốt công tác thông tin đối ngoại để xây dựng hình ảnh quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, tăng cường hợp tác thu hút các nguồn lực đầu tư, thu hút du lịch và chủ động đấu tranh với những thông tin sai lệch, luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, không đúng sự thật.
Thưa Quốc hội,
Tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý là nhiệm vụ rất khó khăn; vừa là cần thiết, cấp bách trong năm 2012, vừa là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định và phát triển bền vững trong trung và dài hạn.
Trong điều kiện khó khăn, thách thức còn nhiều, nhưng với sự quyết tâm cao, đoàn kết, đồng thuận trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2012 mà Quốc hội đã đề ra, gắn với việc triển khai thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, lần thứ 5 khóa XI của Đảng, tạo tiền đề phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong những năm sau.
Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào cả nước tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để quyết tâm hoàn thành cao nhất các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, góp phần thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội./.
[1] Đó là các chỉ tiêu: Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 34,2% (số đã báo cáo Quốc hội là 31,6%); tỷ lệ nhập siêu đạt 10,16% (số đã báo cáo là 10,5%); tuyển mới trung cấp chuyên nghiệp đạt 12,5% (số đã báo cáo là 10,8%); tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,44% (số đã báo cáo là 1,5%); tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 82% (số đã báo cáo là 78%) và tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 65% (số đã báo cáo là 60%).
[2] Khách quốc tế đến Việt Nam trên 6 triệu lượt người, tăng 19%.
[3] Nếu so với số GDP kế hoạch năm 2011 thì tỷ lệ này là 4,9%.
[4] Đến ngày 31 tháng 12 năm 2011, dư nợ công bằng 52,9% GDP, dư nợ Chính phủ 41,9% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia 41,1% GDP.
[5] Trong đó: Đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,5%; vốn trái phiếu Chính phủ 5,2%; vốn tín dụng đầu tư nhà nước 5,8%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước 10%; vốn đầu tư của khu vực dân cư và doanh nghiệp tư nhân chiếm 35,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 19,1%; các nguồn vốn khác 1,5%.
[6] Năm 2011, Nhà nước đã bố trí 3.290 tỷ đồng thực hiện Chương trình 30a; cấp 71,7 ngàn tấn gạo cho các địa phương phục vụ cứu đói đột xuất trong dịp Tết và giáp hạt, hỗ trợ nhà ở cho 20 ngàn hộ nghèo với số tiền 1.850 tỷ đồng; hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo 3.500 tỷ đồng (14 triệu người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế); miễn, giảm học phí cho 2,5 triệu học sinh nghèo với số tiền 3.500 tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay tín dụng chính sách đạt 93,2 ngàn tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay học sinh, sinh viên đạt 33,4 ngàn tỷ đồng, dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 37,6 ngàn tỷ đồng.
[7] Các chương trình quốc gia về giảm nghèo, dạy nghề, hỗ trợ nhà ở xã hội, xây dựng nông thôn mới…
[8] Theo báo cáo của 54 tỉnh, thành phố, tổng kinh phí dành cho an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2011 là 3.213 tỷ đồng.
[9] Tỷ giá niêm yết mua - bán đô la Mỹ tại các ngân hàng thương mại hiện nay ổn định ở mức dưới 21.000 VND/USD. Cán cân vãng lai thặng dư ước gần 2 tỷ USD cùng với thặng dư cán cân vốn và tài chính dẫn đến cán cân thanh toán tổng thể quý I năm 2012 ước thặng dư 2 tỷ USD (cùng kỳ thâm hụt 126 triệu USD).
[10] Tỷ lệ nhập siêu 4 tháng đầu năm 2010 và năm 2011 lần lượt là 23,4% và 16,5%.
[11] Cùng kỳ năm 2011 tăng 3,5%.
[12] Sản lượng khai thác đạt khoảng 834.000 tấn, tăng 3,1%.
[13] Tổng số thuê bao điện thoại phát triển mới tăng 20%; thuê bao internet băng rộng tăng 20,4%.
[14] Đến giữa tháng 4 năm 2012 đã hỗ trợ cứu đói 32,9 ngàn tấn gạo..
[15] Công nghiệp tăng 4%, xây dựng giảm 3,8%.
[16] Chỉ số tồn kho tại thời điểm ngày 01 tháng 4 năm 2012 của công nghiệp chế biến tăng 32,1%, so cùng kỳ (trong đó phân hóa học tăng 63,4%, xi măng tăng 44,2%, mô tô, xe máy tăng 38,9%, may mặc tăng 35,6%, chế biến rau quả tăng 94,8%...).
[17] Theo số liệu quý I năm 2012: Trong tổng số doanh nghiệp đã giải thể, các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ chiếm 26,1%; trong ngành công nghiệp, khai khoáng chiếm 14,7%; trong ngành xây dựng và bất động sản chiếm 10,7% và trong ngành vận tải - kho bãi chiếm 9,9%....
[18] Tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm chỉ đạt 33%.