Củng cố nền tảng vĩ mô, khơi thông các động lực tăng trưởng, duy trì đà phát triển của nền kinh tế
Tiến tới Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, Tạp chí điện tử Đảng ủy Khối DNTW trân trọng giới thiệu bài viết “Củng cố nền tảng vĩ mô, khơi thông các động lực tăng trưởng, duy trì đà phát triển của nền kinh tế” của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ.
Chúng ta đã đi qua 3/4 chặng đường của năm 2018 và nửa thời gian thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XII. Nhờ sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục đà chuyển biến tích cực, năm sau tốt hơn năm trước, đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, năm 2018 ước hoàn thành và vượt 12/12 chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Kết quả của năm 2018 và giai đoạn 2018 - 2020 là những nền tảng quan trọng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết số 142/2016/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.
I
Bước vào năm 2018, năm “bản lề” của giai đoạn 2016 - 2020, tình hình thế giới vẫn tiếp tục xu hướng phức tạp của những năm gần đây: Cạnh tranh địa chính trị gay gắt, xung đột xảy ra ở nhiều nơi, kinh tế toàn cầu tiếp tục phục hồi nhưng cũng có nhiều rủi ro, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, “chiến tranh” thương mại gia tăng, giá dầu thô tăng mạnh cùng với những biến động về lãi suất, tỷ giá trên thị trường tiền tệ thế giới. Trong khi đó, khoa học công nghệ phát triển nhanh, đặc biệt là những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Ở trong nước, kế thừa những thành tựu đạt được của hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của ta lớn mạnh hơn nhiều, nền kinh tế có độ mở lớn, vị thế quốc tế của ta ngày càng nâng lên, nhưng vẫn còn những hạn chế, yếu kém tích tụ từ trước, biến đổi khí hậu và diễn biến bất thường về thời tiết, thiên tai, bão lũ bất thường gây thiệt hại nặng nề và ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân.
Trong bối cảnh đó, ngay khi bước vào năm kế hoạch 2018, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc nhằm đánh giá, tổng kết những kết quả đạt được của năm 2017 và triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018. Hội nghị đã vinh dự được đón các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội tới dự, chỉ đạo, đặc biệt đây là lần đầu tiên Tổng Bí thư tham dự và chỉ đạo Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Chính phủ về tổng kết năm và triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm tới. Triển khai ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, ngay ngày đầu tiên của năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 01 của Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương quyết liệt thực hiện đồng bộ, hiệu quả 9 nhóm với 56 giải pháp và 242 nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở bám sát các Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội. Với tinh thần chỉ đạo xuyên suốt là kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân đã nỗ lực cố gắng, đoàn kết, chủ động, sáng tạo triển khai thực hiện. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội sau 3 Quý của năm 2018 tiếp tục duy trì đà chuyển biến tích cực, nền tảng vĩ mô tiếp tục được củng cố, các động lực tăng trưởng được phát huy, dự kiến tất cả các chỉ tiêu đặt ra đều đạt và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục được duy trì ổn định, tạo nền tảng quan trọng để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực. Kết quả nổi bật nhất là lạm phát được kiểm soát liên tiếp trong năm thứ 3 của giai đoạn 2016 - 2020, chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) luôn duy trì ở mức dưới 4%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội giao. Các chính sách tài khóa, tiền tệ và chính sách vĩ mô khác được điều hành linh hoạt, kịp thời, giữ vững được sự ổn định của tỷ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ, tín dụng trong nước; thanh khoản và an toàn hệ thống được đảm bảo; duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, khoảng 17%, đáp ứng được yêu cầu về vốn của nền kinh tế, nhất là lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ưu tiên; nợ công giảm từ 64,8% cuối năm 2015 xuống còn khoảng 61,4% năm 2018, thời gian trả nợ được kéo dài. Thị trường chứng khoán - kênh huy động vốn của doanh nghiệp tiếp tục khởi sắc và đã được quốc tế đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng lên thị trường mới nổi.
Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm và cải thiện tích cực so với năm 2017. Đáng chú ý, thu ngân sách nhà nước chuyển dịch theo hướng bền vững hơn, ước đạt trên 1,35 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3% so với dự toán và tăng 5,5% so với năm 2017; thu nội địa chiếm gần 82% tổng thu cân đối ngân sách nhà nước (năm 2016 chiếm 79%). Bội chi ngân sách ước đạt 3,67%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (3,7%). Cơ cấu chi ngân sách có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng chi đầu tư phát triển (ước đạt 26,8% tổng chi NSNN, cao hơn mức 25% của năm ngoái), giảm chi thường xuyên (không bao gồm chi cải cách tiền lương, tinh giản biên chế đạt 61%, thấp hơn mức 62% của năm 2017). Giải ngân vốn đầu tư công ngày càng được cải thiện, ước cả năm đạt trên 90% kế hoạch. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 1,89 triệu tỷ đồng, tăng 13,6%, bằng 34% GDP, đạt ở mức cao mục tiêu Quốc hội giao (33 - 34%) và mục tiêu 5 năm (32 - 34%). Cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo hướng tích cực, đầu tư của khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng ngày càng cao, đạt 42,4% (giai đoạn 2011 - 2015 đạt 38,3%); giải ngân vốn FDI đạt khá ước đạt 18 tỷ USD tăng trên 2%, khẳng định môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, hấp dẫn các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài.
Trong bối cảnh xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng và tác động của căng thẳng thương mại quốc tế, xuất nhập khẩu tiếp tục góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế với đà tăng trưởng cao, tổng kim ngạch vượt mốc kỷ lục của năm 2017, ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7%. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 238 tỷ USD, tăng 11,2%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (7 - 8%). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cải thiện, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm có chất lượng, giá trị cao, đã có 3 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu vượt 20 tỷ USD; cán cân thương mại xuất siêu khoảng 1 tỷ USD. Cán cân thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại hối tiếp tục cải thiện. Ước cả năm, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư 9 tỷ USD, quy mô dự trữ ngoại hối tăng cao, ước đạt khoảng 60 tỷ USD.
Tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2018 ước đạt 6,98%, cả năm dự báo triển vọng có thể đạt cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra 6,7%. Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2018 đạt 5,5 triệu tỷ đồng (tương đương 240,5 tỷ USD), gấp 1,33 lần năm 2015. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015. Tăng trưởng kinh tế dịch chuyển dần sang chiều sâu, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ngày càng được nâng lên. Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) giai đoạn 2016 - 2018 ước đạt 42,18% (giai đoạn 2011 - 2015 đạt 33,58%), năng suất lao động duy trì nhịp độ tăng 5,62%, cao hơn mức tăng của các nước ASEAN và vượt mục tiêu bình quân 5 năm được Quốc hội giao.
Động lực tăng trưởng kinh tế đến từ cả phía cung và phía cầu, trong đó, đáng chú ý là sự phát triển toàn diện của tất cả các ngành, lĩnh vực, với nhiều nhân tố mới. Điểm nổi bật là cả ba khu vực đều tăng cao hơn cùng kỳ; trong đó nông nghiệp 9 tháng tăng 3,65%, cao nhất so với cùng kỳ kể từ năm 2012, nhờ chuyển biến hiệu quả của quá trình cơ cấu lại ngành, vùng sản xuất và sản phẩm gắn liền với đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới trong nhiều năm qua; công nghiệp tăng 8,89%, với vai trò “nòng cốt” đóng góp cho tăng trưởng kinh tế là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng liên tục ở mức 2 con số, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng giảm sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản, tài nguyên; dịch vụ tăng 6,89%, đóng góp chủ yếu từ các hoạt động bán buôn, bán lẻ; dịch vụ du lịch có bước phát triển vượt bậc, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt khoảng 15 triệu lượt khách, tăng 16,3%, vượt con số kỷ lục của năm 2017 (13 triệu lượt khách). Tổng cầu tăng mạnh; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,3%. Với xu hướng tốt như hiện nay, tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020 có thể sẽ đạt mục tiêu Đại hội Đảng XII đề ra là 6,5 - 7%, cao hơn bình quân giai đoạn 2011 - 2015 (5,91%).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh, từ 17,4% năm 2015 xuống 14,8% năm 2018; các khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng từ 82,6% lên 85,2%. Cơ cấu nội ngành đi vào thực chất hơn. Tỷ trọng ngành khai khoáng giảm mạnh; các ngành chế biến, chế tạo, ứng dụng công nghệ cao tăng nhanh. Xếp hạng năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) của Việt Nam tăng từ thứ 48 năm 2016 lên thứ 41 vào năm 2017, thu hẹp khoảng cách so với các nước ASEAN - 4. Thành lập và đưa Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt động, góp phần đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN, cổ phần hóa và thoái vốn. Tạo ra chuyển biến tích cực trong việc xử lý các tồn tại, yếu kém của 12 dự án, doanh nghiệp yếu kém ngành công thương, trong đó, một số dự án, doanh nghiệp đã quay trở lại hoạt động và có đóng góp bước đầu vào tăng trưởng chung. Cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, phát huy hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội; tiếp tục kiểm soát nợ xấu ở mức dưới 3%.
Như vậy, cả nước đang thực hiện hiệu quả và dự báo sẽ thành công “mục tiêu kép” là vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng GDP, tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc, củng cố quốc phòng, ổn định trật tự, an toàn xã hội...
Nhiều tổ chức quốc tế cũng tin tưởng vào thành công của chúng ta và đã có những dự báo tích cực đối với Việt Nam, Ngân hàng Thế giới WB dự báo tăng trưởng GDP cả năm nay sẽ là 6,8%, Ngân hàng phát triển châu Á ADB tiếp tục dự báo khoảng 6,9%, Fitch nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ BB- lên BB với triển vọng ổn định, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng bậc xếp hạng trái phiếu Chính phủ Việt Nam dài hạn bằng ngoại tế và khoản vay không được bảo đảm lên mức Ba3 từ mức B1 và thay đổi triển vọng kinh tế từ Tích cực sang Ổn định.
Bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và tiếp tục gặp những thách thức từ bên ngoài. Sức ép lạm phát còn lớn do tác động của nhiều yếu tố, nhất là biến động tỷ giá, lãi suất (Mỹ đã tăng lãi suất 3 lần trong năm 2018 và dự kiến từ giờ đến cuối năm sẽ tăng thêm 1 lần nữa), xu hướng tăng giá dầu thô và việc thực hiện lộ trình giá thị trường với điện, dịch vụ giáo dục, y tế... Tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế được nâng lên nhưng khả năng chống chịu trước những biến động bên ngoài còn hạn chế. Giải ngân vốn đầu tư công, cổ phần hoá DNNN, thoái vốn ở nhiều bộ, ngành và địa phương còn chậm. Tình hình sản xuất kinh doanh nhiều lĩnh vực còn khó khăn, năng lực hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, chưa cải cách thực chất. Năng suất lao động, năng lực cạnh tranh trong nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới,…
Nhìn chung, mặc dù còn nhiều hạn chế, khó khăn và trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động, chúng ta đã kiểm soát tốt lạm phát, ổn định vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung chỉ đạo phát triển các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực mới nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn giai đoạn 2010 - 2015, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, bền vững hơn; quy mô nền kinh tế tăng mạnh. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí đạt nhiều kết quả quan trọng. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Trên cơ sở kết quả 9 tháng, ước cả năm 2018 chúng ta sẽ đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch đề ra, trong đó có 8 chỉ tiêu vượt. Với kết quả đạt được của năm bản lề 2018, tình hình đất nước trên các lĩnh vực trong 3 năm 2016 - 2018 phát triển đúng hướng, chuyển biến rõ nét hơn giai đoạn trước. Dự báo chúng ta sẽ đạt được các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng XII đã đề ra, trong đó đến nay 11 chỉ tiêu đạt và vượt. Việc đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đúng hướng, đổi mới, sát sao, quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành; sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, góp phần quan trọng củng cố niềm tin, tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để hoàn thành và vượt các mục tiêu kế hoạch không chỉ cho năm 2018 mà còn cho cả nhiệm kỳ, không được chủ quan, phải thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; kiên định thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô; tiếp tục các giải pháp cắt giảm điều kiện kinh doanh doanh, cắt giảm chi phí, cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và tạo niềm tin thu hút mạnh hơn nữa đầu tư của lĩnh vực tư nhân, các tập đoàn lớn, tập đoàn xuyên quốc gia; tiếp tục đẩy mạnh triển khai các hoạt động tăng cường năng lực tiếp cận khoa học công nghệ, chủ động phòng, chống thiên tai, bão, lũ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
II
Nhìn sang các năm 2019 và năm 2020, xu thế tích cực của nền kinh tế vẫn là chủ đạo, triển vọng kinh tế Việt Nam tiếp tục khả quan, nhất là môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin vào cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh được củng cố. Tuy nhiên, các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp cần lưu tâm tới một số rủi ro, thách thức, trong đó lớn nhất là thách thức đến từ bên ngoài, tạo áp lực cho công tác điều hành, ứng phó với các biến động trong tương lai. Đó là sức ép về lãi suất đồng USD, giá dầu thô và giá cả hàng hóa thế giới, căng thẳng do chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể kéo dài, xu hướng bảo hộ mậu dịch tiếp tục gia tăng, tạo áp lực lớn cho điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất và lạm phát trong nước. Từ năm 2019, Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết, nhất là cam kết mở cửa, hội nhập,... mang lại cơ hội thu hút nguồn lực nước ngoài, nhưng đồng thời, cũng là áp lực cạnh tranh không nhỏ đối với sản xuất, kinh doanh trong nước.
Chính phủ đã xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội cho năm 2019 là: Tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế; tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng; đẩy mạnh, tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; quyết liệt đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và tận dụng hiệu quả Cách mạng công nghiệp 4.0. Chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng bộ máy liêm chính, hành động, phục vụ. Củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của năm 2019 dự kiến là GDP tăng khoảng 6,6 - 6,8%, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7 - 8%, tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 33 - 34% GDP... Để đạt được những mục tiêu này, các ngành, các cấp cần tiếp tục thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều hành, phối hợp đồng bộ, linh hoạt, chủ động chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Tăng cường công tác dự báo, kịp thời có các giải pháp, đối sách phù hợp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý theo lộ trình phù hợp, bảo đảm thận trọng, không tăng giá đồng loạt nhiều hàng hóa, dịch vụ trong cùng thời điểm, hạn chế điều chỉnh vào các tháng cuối năm. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện rà soát, cắt giảm các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh bất hợp lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên, khu vực sản xuất, kinh doanh. Điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối vĩ mô. Tiếp tục triển khai tích cực các biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa. Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ gắn với cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công; mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu thuế, chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá. Đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính, chứng khoán, tập trung phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp chủ động phương án hấp thu hiệu quả các nguồn vốn từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện quyết liệt 3 đột phá chiến lược. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật. Nghiên cứu xây dựng Luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật. Thực hiện tốt công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo, hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mang tính thử nghiệm gây sốc, tác động xấu đến xã hội và người dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao. Kiên quyết thực hiện việc trao quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở đào tạo. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, bảo vệ, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tập trung nguồn lực thực hiện một số dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm có tính lan toả cao; đẩy nhanh tiến độ dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam, các dự án trọng điểm quốc gia và các điều kiện cần thiết để triển khai dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo sự chuyển biến rõ nét hơn, thực chất hơn nữa trong từng ngành, lĩnh vực, nhất là trong bối cảnh thực hiện chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Theo đó, đẩy mạnh thực hiện chuyển dần từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước; chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, thực hiện đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với các ưu tiên về cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và tốc độ cổ phần hóa, phát huy vai trò của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong nâng cao thực chất trình độ quản trị, tăng cường tính công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Giám sát việc thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tăng cường quản lý hoạt động thanh toán, đặc biệt là thanh toán điện tử trong việc cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới, trung gian thanh toán, thanh toán qua mạng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, vùng sản xuất nông nghiệp theo 3 trục sản phẩm gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới. Phát triển, mở rộng sản xuất, theo hướng khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng của từng vùng, miền, địa phương, phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đảm bảo an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu và gắn kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến, nhất là chế biến sâu để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn phục vụ xuất khẩu. Đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, cạnh tranh quốc tế.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp, phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu, tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp, từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Triển khai thực hiện hiệu quả các đề án hỗ trợ ngành công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành trọng điểm như: Công nghiệp ô tô, điện tử, dệt may và da giày. Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách về phát triển các ngành công nghiệp chế tạo. Tiếp tục giải quyết cơ bản những dự án kém hiệu quả, thua lỗ.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ đến năm 2020. Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, hàng giả. Tăng cường các biện pháp quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối bán lẻ theo các cam kết mở cửa thị trường nhằm đảm bảo sự công bằng với doanh nghiệp trong nước. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khai thác tốt thị trường du lịch nội địa, chủ động chuyển hướng thị trường khách quốc tế để giảm dần sự phụ thuộc. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu. Tăng cường các biện pháp tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu đặc biệt là nông, thủy sản thâm nhập vào các thị trường mới. Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết, phê duyệt các hiệp định thương mại tự do.
Ngoài ra, Chính phủ cũng xác định các giải pháp quan trọng khác nhằm bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát triển toàn diện các lĩnh vực xã hội. Chú trọng các giải pháp phát huy nguồn lực tài nguyên gắn với đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương; xây dựng Chính phủ điện tử gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy biên chế tinh gọn; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông theo hướng công khai, minh bạch và hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh và phát huy hiệu quả công tác phối hợp giữa Chính phủ và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp đề ra./.
Nguồn: Cổng TTĐT Chính phủ