.
.

Bảo vệ môi trường cần sự khuyến khích của Nhà nước

Thứ Năm, 23/08/2012|21:08

Để khắc phục ô nhiễm môi trường và xử lý ngăn ngừa ô nhiễm môi trường phát sinh trong quá trình khai thác khoáng sản, những năm gần đây, Tập đoàn Vinacomin đã triển khai thực hiện nhiều dự án, công trình, giải pháp bảo vệ môi trường với tổng giá trị mỗi năm hàng trăm tỷ thậm chí hàng ngàn tỷ đồng. Đây thực sự là nỗ lực cao, thể hiện trách nhiệm trước xã hội, đảm bảo nguyên tắc Tập đoàn đưa ra là sản xuất hài hòa với môi trường và xã hội. Tuy nhiên trong quá trình triển khai rất cần sự khuyến khích của Nhà nước.

Đập thu gom nước ở bãi thải Nam Đèo Nai và kè đá chống xói mòn ở bãi thải ngã ba Dương Huy
Đập thu gom nước ở bãi thải Nam Đèo Nai và kè đá chống xói mòn ở bãi thải ngã ba Dương Huy
Nỗ lực của Vinacomin

Hiện nay, mặc dù trong điều kiện khó khăn về tài chính, nhưng Tập đoàn Vinacomin vẫn đầu tư khoảng 700 tỷ đồng mỗi năm cho công tác bảo vệ môi trường (BVMT), trong đó khoảng 60-70% dành cho các dự án sử dụng nguồn Quỹ Môi trường tập trung, phần còn lại sử dụng cho các công việc bảo vệ thường xuyên và các dự án BVMT của các đơn vị thành viên. Nhiều đơn vị thành viên của Tập đoàn đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và tổ chức quan trắc môi trường theo định kỳ. Đồng thời không vận chuyển than trên đường bộ, làm mới và cải tạo các tuyến vận chuyển than chuyên dùng nhằm tách việc vận chuyển than ra khỏi khu dân cư, giảm thiểu bụi và tiếng ồn đối với khu dân cư. Đến nay, về cơ bản tại các vùng Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí, việc vận chuyển than đã được đưa vào đường chuyên dùng. Cẩm Phả có tuyến đường chuyên dùng Bắc Cọc Sáu  Khe Dây, Hạ Long có tuyến riêng ra Cột 8, Uông Bí có tuyến đường sắt Vàng Danh  Điền Công và Mạo Khê có tuyến băng tải ống Mạo Khê  Bến Cân v.v. Trên tuyến đường 18 đã không còn việc vận chuyển than bằng ô tô. Tập đoàn cũng tiến hành nạo vét các suối, mương trong ranh giới mỏ như cải tạo hệ thống thoát nước Khe Chàm - Dương Huy, cải tạo cảnh quan môi trường sông Vàng Danh (TP Uông Bí), sông Mông Dương (TP Cẩm Phả)…

Bên cạnh đó, Tập đoàn còn đầu tư trên 800 tỷ đồng cải tạo phục hồi môi trường các bãi thải, khai trường đã kết thúc sản xuất như: Bãi thải Nam Đèo Nai, Nam Lộ Phong - Hà Tu, Ngã Hai - Dương Huy, vỉa 7-8 Hà Tu. Đồng thời xây dựng hệ thống kè, đập chắn đất đá tại các vị trí trọng yếu của các bãi thải đang hoạt động như: Bãi thải Chính Bắc Núi Béo, Đông Cao Sơn, Khe Rè... Công trình cải tạo môi trường 4 hồ Đông Triều với tổng mức đầu tư 141 tỷ đồng đang được thực hiện. Ngoài ra, Vinacomin vẫn tiếp tục đầu tư vào các hệ thống kè, đập chống trôi lấp đất đá như kè mức +75 bãi thải Chính Bắc, kè chắn Giáp Khẩu bảo vệ khu dân cư Hà Khánh (TP Hạ Long)…

Cùng với các hoạt động trên, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt được các đơn vị của Vinacomin thuê các công ty môi trường trên địa bàn thu gom, xử lý. Riêng với chất thải nguy hại (dầu cặn thải) được các đơn vị chủ động thu gom, về lưu giữ tạm trong kho chứa riêng và thuê các công ty có giấy phép vận chuyển, xử lý theo quy định. Để thực hiện triệt để về rác thải nguy hại có bài bản hơn, Tập đoàn đã giao Công ty Môi trường của Tập đoàn lập dự án xử lý chất thải nguy hại cho các đơn vị sản xuất trên địa bàn tỉnh. Dự kiến cuối năm 2012 sẽ hoàn thành thủ tục đầu tư công trình với số vốn đầu tư dự tính hàng trăm tỷ đồng để thu gom và xử lý toàn bộ chất thải nguy hại phát sinh trong quá trình sản xuất của các đơn vị thành viên Vinacomin.

Có thể thấy việc chủ động thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường thời gian qua của Vinacomin đã cơ bản khắc phục được tình trạng ô nhiễm môi trường trong quá trình khai thác khoáng sản.

Cần sự khuyến khích của Nhà nước

Tuy nhiên, trong quá trình khai thác và triển khai các dự án bảo vệ môi trường của Vinacomin cho thấy, còn có nhiều bất cập về cơ chế chính sách khiến nhiều dự án chưa được khai thông, đặc biệt là rất cần có cơ chế khuyến khích của Nhà nước. Hệ thống các văn bản pháp quy pháp luật về hoạt động khoáng sản dường như mới phù hợp trong giai đoạn ngắn từ 5 năm đến 10 năm, trong khi các hoạt động về khoáng sản thường có chu kỳ kinh tế rất dài, từ 30 năm đến 50 năm. Phí bảo vệ môi trường mới được tính theo quặng nguyên khai mà chưa tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ ô nhiễm môi trường. Thậm chí một số loại phí, thuế còn thiếu tính khoa học, chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, bảo vệ môi trường, hay chưa có quy chuẩn kỹ thuật áp dụng riêng cho từng loại hình khai thác v.v. Mặt khác, trên thực tế, tiến độ ban hành các văn bản pháp quy về công tác bảo vệ môi trường của cơ quan Nhà nước chậm, chất lượng văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo, chưa đảm bảo tính thống nhất và khả thi, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động khoáng sản.Về các chính sách pháp luật về thuế, phí và lệ phí liên quan đến quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, trong quá trình triển khai, thực hiện đã phát sinh một số tồn tại, vướng mắc như việc xác định trữ lượng mỏ làm căn cứ quy định mức thuế suất lại tính tại thời điểm cấp phép, trong khi trữ lượng khai thác có thể sẽ biến động, dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện, tạo cơ chế xin-cho, đánh đồng, không khuyến khích được doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường…

P.V

 

.
.
.
.