.
.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3: Tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

Bài 2: Yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam

Thứ Năm, 29/12/2011|12:18

Nền kinh tế Việt Nam đã, đang và còn tiếp tục trải qua những đợt tái cấu trúc lớn, khởi đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX với việc thực hiện bước chuyển căn bản từ cơ chế và cơ cấu bao cấp sang cơ chế và cơ cấu kinh tế thị trường… Cho đến nay, về cơ bản và tổng thể, kinh tế Việt Nam vẫn mang những đặc trưng chung của nền kinh tế chậm phát triển, với cơ cấu ngành, sản phẩm và công nghệ lạc hậu, cơ cấu lao động và lãnh thổ còn nhiều bất cập, sức cạnh tranh thấp và tính dễ bị tổn thương cao…

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu hiện nay, nhu cầu tái cấu trúc nền kinh tế đặt ra ngày càng bức thiết. Hơn nữa, định hướng và yêu cầu tái cấu trúc cũng cần phù hợp với bối cảnh mới. Hiện tại, Bản Đề án Tái cấu trúc nền kinh tế đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, doanh nghiệp, địa phương và tham khảo ý kiến các nhà khoa học trong cả nước cùng xây dựng. Mục tiêu của Đề án, theo chỉ đạo của Chính phủ, là: “Để tranh thủ cơ hội thuận lợi, kịp thời bổ sung, thay thế và trang bị mới hệ thống máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại nhằm phát triển kinh tế đất nước một cách bền vững”. Nội dung của tái cấu trúc bao gồm tái cấu trúc cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản phẩm ngành nghề, sắp xếp và cấu trúc lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN)… 

Để quá trình tái cấu trúc nền kinh tế đạt được mục tiêu đặt ra, cần bảo đảm các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, khuyến khích việc sáp nhập để phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu, kinh doanh đa ngành, hoạt động xuyên quốc gia. Đồng thời, loại dần các doanh nghiệp (DN) nhỏ, yếu kém sức cạnh tranh và không có triển vọng thị trường… hình thành nền kinh tế với cơ cấu hai tầng: Tầng trên là các DN lớn, hiện đại; tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết chặt chẽ với nhau và với tầng trên.

Thứ hai, hình thành các sản phẩm chủ lực, quy mô lớn, có hiệu quả và phát huy lợi thế so sánh chung của đất nước, của địa phương và của DN trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.

Thứ ba, có sự tham gia rộng rãi, tự nguyện của các DN và đối tác liên quan theo nguyên tắc thị trường, đồng thời, đề cao bàn tay nhạc trưởng thống nhất của Nhà nước thông qua các công cụ luật pháp và ngân sách Nhà nước….

Thứ tư, cần bắt đầu tái cấu trúc theo từng ngành và sản phẩm kinh tế chủ lực, từ đó hình thành phương án chung của cả nước; mở rộng quá trình cổ phần hóa các DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài… Cần đề cao vai trò của SCIC (Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước) trong việc chủ động mua bán các cổ phần doanh nghiệp để định hướng và thúc đẩy quá trình này.

Về triển vọng dài hạn và tổng thể, quá trình tái cấu trúc này cần bảo đảm định hình và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI với 3 đặc trưng chủ yếu sau:

Thứ nhất, đó là nền kinh tế đa sở hữu, trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tiếp tục là lực lượng sản xuất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chủ yếu hoạt động trong những lĩnh vực thuộc độc quyền Nhà nước liên quan đến an ninh - quốc phòng, khai thác các tài nguyên quý, hiếm, hoặc tham gia kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực nhạy cảm quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm cơ sở cho sự ổn định lành mạnh và định hướng sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Kinh tế tập thể sẽ tiếp tục được đổi mới và phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, thực chất hơn, quy mô phù hợp với thực tiễn thị trường và năng lực của đơn vị; xuất hiện một số HTX tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ quy mô lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hình thành các liên hiệp HTX, hoạt động theo cơ chế thị trường, mang dáng dấp đời sống của một doanh nghiệp cổ phần; xuất hiện nhiều HTX chuyên ngành với kiểu tổ chức và cơ chế vận hành ngày càng đa dạng, khi đó một thể nhân hoặc pháp nhân đồng thời là xã viên của nhiều HTX khác nhau. Các loại hình trang trại và liên hiệp trang trại với quy mô lớn, kinh doanh tổng hợp kết hợp công - nông - lâm nghiệp và sinh thái sẽ trở thành mô hình có hiệu quả ở các vùng ngoại ô và địa phương. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) sẽ tiếp tục phát triển theo hướng tăng cường cổ phần hóa, liên doanh, liên kết, nhưng loại hình 100% vốn nước ngoài (kể cả các doanh nghiệp cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài với nhau) sẽ tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong những lĩnh vực công nghiệp xuất khẩu nói riêng, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN nói chung; sẽ xuất hiện nhiều hơn các doanh nghiệp Việt Nam là đại lý, chi nhánh hoặc công ty con của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhất là trong các ngành sản xuất phụ trợ. Quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp được đẩy nhanh và diễn ra với quy mô ngày càng sâu, rộng, theo xu hướng thành cơ cấu kinh tế 2 tầng - với tầng trên là các doanh nghiệp lớn, mạnh cả về tài chính, công nghệ, hoạt động xuyên quốc gia và tổ chức theo mô hình tập đoàn, công ty mẹ - con, còn tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được chuyên môn hóa sâu và có quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp khác, đồng thời chủ động tham gia liên kết vào các khâu của chuỗi giá trị kinh doanh toàn cầu. Tính chất quốc tế hóa này bao phủ ngày càng đậm nét và xuyên suốt các quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc tiếp cận các yếu tố “đầu vào” (nguyên liệu, công nghệ, nguồn vốn, thiết bị máy móc, kể cả nhân lực), đến quá trình tổ chức quản lý bên trong doanh nghiệp (cơ cấu tổ chức, công nghệ quản lý, các tiêu chuẩn chất lượng), cũng như việc thực hiện “đầu ra” cho các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp (thị trường, đối tác và các luật lệ, thể chế quốc tế). Sẽ ngày càng giảm dần sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và tính chất trong nước - nước ngoài của các doanh nghiệp, cũng như các thị trường. Các công ty cổ phần, đa sở hữu sẽ ngày càng trở thành hình thức chủ yếu trong tổ chức của doanh nghiệp. Các công ty tư nhân và công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn và có đóng góp ngày càng quan trọng hơn, trở thành động lực chính cho sự phát triển kinh tế tương lai của mỗi địa phương, cũng như cả nước. Sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sẽ ngày càng đậm nét và hiệu quả hơn, cũng như ngày càng trở nên phức tạp, với sự tham gia đồng thời của tất cả các doanh nghiệp với đủ loại hình, quy mô, tính chất và trình độ phát triển khác nhau, ngày càng mang tính liên cấp, liên ngành, liên quốc gia trong sự tuân thủ các luật chơi và tiêu chuẩn chất lượng đồng nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ vừa có sự chuyên môn hóa sâu trong sản xuất - kinh doanh, vừa có sự năng động cao, sẵn sàng điều chỉnh, thay đổi, đa dạng hóa các mẫu mã, sản phẩm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước những biến động nhanh chóng của thị trường và đơn đặt hàng của đối tác. Các doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ, chất lượng cao. Lao động trong các doanh nghiệp và trên thị trường lao động nói chung cũng sẽ có tính linh hoạt nhiều hơn và dần phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Nhu cầu thành lập hiệp hội những người chủ sử dụng lao động sẽ ngày càng đậm nét. Xuất hiện ngày càng phổ biến các hiện tượng phá sản, giải thể, chia tách và sáp nhập, mua bán chuyển nhượng các doanh nghiệp, các cổ phần, cổ phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những khả năng và biểu hiện độc quyền kinh tế kiểu mới, phi truyền thống, phi hành chính sẽ ngày càng hiện hình trong sự đa dạng, thậm chí rất tinh vi của nó. Các tranh chấp và chấn động kinh tế, thương mại, lao động và các dạng tội phạm khác cả truyền thống và phi truyền thống, ngày càng mang tính quốc tế và liên ngành, có tổ chức hơn, trực tiếp và gián tiếp phát sinh từ quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng với mức độ phức tạp và gây hậu quả nặng nề hơn... 

Thứ hai, đó là nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc cơ chế thị trường mở, có sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN. Môi trường đầu tư - kinh doanh sẽ ngày càng bình đẳng và đồng nhất hóa giữa các loại hình doanh nghiệp, và phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Sẽ có sự phân biệt rành mạch hơn chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh. Nhà nước sẽ chủ yếu can thiệp gián tiếp vào doanh nghiệp thông qua sử dụng đồng bộ các công cụ kinh tế - hành chính (trong đó, công cụ kinh tế thị trường là chủ yếu) điều chỉnh "nồng độ" môi trường đầu tư - kinh doanh để định hướng hoạt động của các doanh nghiệp theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã thông qua, phù hợp đòi hỏi thị trường. Các cơ quan tư pháp sẽ được củng cố, được tôn trọng và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn. Các thiết chế thị trường sẽ được hình thành và phát triển đồng bộ, lành mạnh và ngày càng đóng vai trò bà đỡ, trực tiếp nuôi dưỡng, thẩm định và phán quyết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức đoàn thể, hiệp hội ngành nghề của doanh nghiệp cũng sẽ có sự phát triển, mở rộng quy mô, tính chất để trở nên có tính “mở” hơn, mang tính thị trường hơn, bao quát và thu hút ngày càng rộng rãi hơn các doanh nghiệp hội viên, không phân biệt nguồn gốc sở hữu, loại hình tổ chức và tính chất ngành nghề, địa phương. Vai trò hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ sẽ ngày càng tăng và củng cố trong kinh tế, đồng thời mở rộng dần sang lĩnh vực xây dựng chính sách, cải thiện môi trường đầu tư và cả các lĩnh vực chính trị - xã hội khác. 

Thứ ba, đó là nền kinh tế ngày càng hướng vào khai thác các động lực và đáp ứng các yêu cầu phát triển theo chiều sâu và bền vững. Khoa học công nghệ (nhất là công nghệ sạch, hiện đại), khả năng lao động tự giác, sáng tạo và trách nhiệm đạo đức của người lao động được tôn trọng (đặc biệt là bộ phận nhân lực trình độ, chất lượng cao; các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà khoa học, tư vấn các doanh nhân, các chuyên gia và thợ giỏi...) và ngày càng trở thành động lực phát triển kinh tế mạnh nhất của đất nước. Thông tin, khoa học - công nghệ và nhân tài trở thành động lực chính cho sự phát triển doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp trở thành một nghề chuyên nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp thành công cũng thường là các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thành công thương hiệu, cũng như văn hóa kinh doanh đặc sắc của mình và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội có liên quan của doanh nghiệp. Các yêu cầu bảo vệ môi sinh, bảo vệ thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu chất phát thải và phế liệu sản xuất sẽ ngày càng được đề cao, kiểm soát chặt chẽ với sự phát động, thúc đẩy và kiểm soát ngày càng nghiêm ngặt và hiệu quả hơn của bàn tay Nhà nước…

TS Nguyễn Minh Phong

Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Hà Nội

.
.
.
.