.
.

Tái cấu trúc DNNN - gia tăng sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ Sáu, 09/12/2011|00:19

 


Ảnh minh họa

Cần có quan điểm mang tính nền tảng để nhận thức đầy đủ, toàn diện và triệt để toàn bộ quá trình này tạo căn cứ đề xuất chính sách nhất quán, ổn định và giải pháp phù hợp.

 

Thời cơ đẩy nhanh tái cấu trúc DNNN

Tái cấu trúc (hay cơ cấu lại) doanh nghiệp là quá trình điều chỉnh chiến lược kinh doanh, thay đổi cơ cấu chủ sở hữu và quyền kiểm soát, điều chỉnh bộ máy quản lý, lực lượng lao động, cơ cấu lại nguồn vốn, thay đổi mạng lưới kinh doanh để thích nghi với điều kiện kinh doanh thay đổi, tăng sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Tái cấu trúc doanh nghiệp là công việc thường xuyên diễn ra đặc biệt vào những thời điểm có sự thay đổi lớn của môi trường kinh doanh như khủng hoảng kinh tế, tài chính, tình trạng cạnh tranh gia tăng, chính sách thay đổi hoặc có sự xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh mới cần được triệt để khai thác. Đây là một quá trình tạo ra sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quá trình phát triển của doanh nghiệp.

Những kết quả đạt được trong quá trình tái cấu trúc DNNN tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 được thể hiện khá rõ ràng và có thể nói đây là quá trình thực hiện khá liên tục và bền bỉ tại Việt Nam. Theo Báo cáo về hoạt động của DNNN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị CG giữa kỳ 8-9/6/2011 số lượng DNNN đã giảm đáng kể, từ hơn 12.000 doanh nghiệp vào đầu những năm 1990, giảm xuống còn 5.655 doanh nghiệp vào năm 2001, và đến cuối năm 2010 còn khoảng 1.207 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Hình thức cổ phần hoá chiếm hơn 55% số doanh nghiệp được tái cơ cấu và sắp xếp trong giai đoạn 2001-2010. Đồng thời, đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn sang mô hình Công ty TNHH một thành viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Việc chuyển đổi này đã góp phần đổi mới quản trị, thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tính tự chủ và hiệu quả.

Quá trình tái cấu trúc còn được thực hiện thông qua việc sắp xếp, tổ chức lại một số công ty có tiềm lực lớn để hình thành một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn. Có các Tập đoàn kinh tế nhà nước lớn và đang đóng vai trò chủ đạo trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như tập đoàn điện lực, dầu khí, than- khoáng sản, bưu chính- viễn thông, xây dựng và bất động sản…

Trong khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, DNNN sử dụng nguồn lực góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô…Nghĩa là ngoài những tác động quan trọng về kinh tế, những tác động về mặt xã hội cũng được DNNN phát huy. Điều này càng làm rõ hơn về vai trò chủ đạo của DNNN tại Việt Nam có trách nhiệm cả đối với hệ thống chính trị, nền kinh tế và trách nhiệm xã hội trong nước và nghĩa vụ quốc tế.

Bên cạnh những điểm mạnh của DNNN và những thành công cũng như những đóng góp quan trong đối với đất nước, DNNN vẫn có những hạn chế nhất định. Còn có những DNNN chưa mang lại hiệu quả tương xứng với đầu tư của Chính phủ.

Theo đánh giá của Cục Phát triển doanh nghiệp, một số tập đoàn, tổng công ty huy động quá nhiều vốn để đầu tư vào cả những lĩnh vực ít liên quan đến lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. Một số tập đoàn và tổng công ty mở rộng quá nhanh mạng lưới các công ty con trong điều kiện chưa hình thành được hệ thống quản lý tương ứng làm giảm hiệu lực và hiệu năng của hoạt động quản lý. Thứ hai, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước còn bị phân tán, chồng chéo nên trách nhiệm quản lý không rõ ràng và khó xác định được trách nhiệm trực tiếp một cách đầy đủ. Chức năng của chủ sở hữu, chức năng quản lý nhà nước và chức năng điều hành kinh doanh đối với DNNN chưa được phân định rạch ròi. Đối với chủ sở hữu, chức năng chính là chiếm hữu và định đoạt vốn của nhà nước.Vốn phải thuộc về một chủ đích thực và khi người chủ chưa được xác định rõ chức năng chủ sở hữu để thực hiện triệt để thì việc suy giảm chức năng là điều khó tránh khỏi. Về thực chất đây là việc là chưa xác định đích thực chủ sở hữu vốn nhà nước trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước cho nên khó có cơ quan nào chịu trách nhiệm, đặc biệt khi xảy ra tình trạng thua lỗ, thất thoát. Sự chồng chéo về chức năng quản lý và thiếu sự phối hợp đầy đủ trong quản lý, theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra vừa không thực hiện được mục tiêu quản lý vừa gây khó khăn đối với doanh nghiệp.  

Ngoài ra, sự hạn chế trong quá trình tái cơ cấu còn thể hiện ở tiến trình cổ phần hoá DNNN diễn ra chưa theo đúng yêu cầu đặt ra, đặc biệt kể từ năm 2008 do tác động của các yếu tố trong nước và quốc tế như việc định giá doanh nghiệp phức tạp, thị trường bất động sản trong nước có dấu hiệu đầu cơ và tăng trưởng nóng, thị trường chứng khoán trong nước và thế giới rơi vào tình trạng suy giảm, biến động khó dự báo, gây khó khăn trong tiến trình phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp…           

Những hạn chế trên có nguyên nhân từ cả các khía cạnh chủ quan và khách quan. Chính vì thế, cần có sự chuyển biến cơ bản trong tiến trình tái cơ cấu DNNN để thích nghi với tình hình và vượt qua sự suy giảm…

Tái cấu trúc để gia tăng khả năng cạnh tranh và thích nghi

Như đã xem xét trên đây, việc tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam trong điều kiện Việt Nam đang tích cực và chủ động hội nhập quốc tế là việc làm cần thiết. Quá trình mở cửa thị trường theo các cam kết trong WTO đang là cơ hội lớn để hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập sâu vào nền kinh tế Việt Nam và ngược lại. Hai áp lực xuất hiện đồng thời từ việc mở cửa thị trường này là cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt và sự giảm thiểu hỗ trợ của nhà nước. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải gia tăng khả năng cạnh tranh để thích nghi. Đây là khía cạnh đòi hỏi phải có sự nhìn nhận phù hợp bắt đầu từ việc nhận thức tiến trình thông qua các quan điểm. Các quan điểm là các giá trị được nhận thức và đây là nền tảng để có các hành động.   

Thứ nhất, tái cấu trúc DNNN là một quá trình khách quan xuất phát từ động lực phát triển nội tại của doanh nghiệp và áp lực của sự thay đổi môi trường kinh doanh

Áp lực tái cấu trúc xuất phát từ chiến lược, chính sách và cơ cấu tổ chức của các DNNN chưa thật phù hợp với điều kiện phát triển mới nếu chưa nói là tụt hậu và lạc hậu so với yêu cầu của sự phát triển và sự mong đợi của xã hội. Những mâu thuẫn nội tại của doanh nghiệp giữa sự cần thiết phải phát triển bền vững với năng lực hạn chế trong thực hiện mục tiêu chiến lược đang đe doạ sự tồn tại của DNNN. Đây là đòi hỏi từ bên trong bắt buộc và tạo áp lực điều chỉnh kịp thời chiến lược và cải thiện năng lực vận hành doanh nghiệp. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh trong nước và thế giới có sự thay đổi lớn, đặc biệt là những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu còn có những biểu hiện phức tạp, quá trình mở cửa thị trường theo cam kết trong WTO đang mở ra rất nhiều cơ hội phát triển và cũng làm bộc lộ không ít thách thức. Đây là bối cách mới xuất hiện khách quan và tạo động lực và áp lực để DNNN phải tái cấu trúc, nghĩa là cần có tầm nhìn mới, có những giả định mới để nhận dạng những giá trị mới và điều chỉnh lại lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, xây dựng lại mạng lưới, đào tạo lại cán bộ để phù hợp với điều kiện phát triển mới.

Hơn nữa, khi vai trò hỗ trợ của nhà nước bị giảm thiểu, các khoản trợ cấp bị cấm hoặc có thể bị kiện trong WTO theo cam kết hầu như không còn khả năng khai thác, sứ mệnh của DNNN là chỗ dựa vững chắc để nhà nước thực hiện việc điều chỉnh toàn bộ nền kinh tế trong điều kiện giảm thiểu sự hỗ trợ tăng lên. Chính vì thế, cần thực hiện tái cấu trúc để DNNN hoàn thành đầy đủ sứ mệnh phát triển phù hợp với quy luật vận động khách quan của chúng và sự vận hành của các giao dịch kinh tế và kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế chủ động và tích cực. Cần có giải pháp thực hiện quá trình này. Tính chất khách quan của quá trình tái cấu trúc đặt ra yêu cầu phải triển khai phù hợp quá trình này để tận dụng tốt đa các tác động tích cực và giảm thiểu các khía cạnh tiêu cực.      

Thứ hai, tăng cường đến mức cao nhất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong quá trình tái cấu trúc, phát huy tính chủ động và tích cực của DNNN trong cạnh tranh quốc tế và nâng cao hiệu quả quản lý.

Quan điểm này gắn với bản chất của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần, cả thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và kinh doanh bình đẳng. DNNN mang đặc trưng của thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa do đó, việc DNNN phải đóng vai trò chủ đạo là điều tất yếu để dẫn dắt và định hướng vận động của nền kinh tế theo đúng mục tiêu chính trị đặt ra trong từng giai đoạn đồng thời để bảo vệ bản chất xã hội chủ nghĩa của các giao dịch và quá trình trong nền kinh tế thị trường.

Việc thực hiện tái cấu trúc cần gắn biện chứng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cho nên cần sử dụng mức độ tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước làm tiêu chuẩn kiểm định sự thành công của quá trình tái cấu trúc. Để thực hiện công việc đó, cần phát huy vai trò chủ động và tích cực của DNNN trong cạnh tranh quốc tế về công nghệ, chất lượng, giá cả, thương hiệu, mạng lưới, Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả quản lý thông qua thay đổi triết lý, mô hình và đội ngũ cán bộ quản lý. Hiệu quả quản lý được thể hiện ở lợi nhuận cao, nhiều sản phẩm mới ra đời, quy mô đầu tư và kinh doanh mở rộng, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước, tạo nhiều việc làm, làm lành mạnh môi trường và đạo đức kinh doanh, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp…Việc cải thiện năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản lý DNNN là tiền đề và điều kiện quan trọng để tăng cường tối đa vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Thứ ba, bảo đảm kiên định về mục tiêu và nguyên tắc, mềm dẻo trong hình thức và phương thức tổ chức thực hiện tái cấu trúc.

Việc tái cấu trúc là một quá trình diễn ra chịu sự tác động của nhiều yếu tố và nhiều quan điểm khác nhau của các nhóm lợi ích trong xã hội do đó, cần phải có sự kiện định về mục tiêu, xây dựng các nguyên tắc vận hành để tránh sự tuỳ tiện, lệch lạc. Hơn nữa, do thực tiễn tái cấu trúc DNNN chịu ảnh hưởng của các vấn đề chính trị, an ninh, pháp luật, lịch sử, phong tục, tập quán, dư luận, văn hoá…cho nên quá trình thực hiện cần phải mềm dẻo và linh hoạt cả trong hình thức tổ chức và phương thức thực hiện. Điều đó đòi hỏi có nhiều kịch bản khác nhau để lựa chọn ra kịch bản tối ưu. Các kịch bản phải bảo đảm thống nhất về mục tiêu và kiên định về nguyên tắc. Giảm thiểu tính chất cứng nhắc trong quá trình thực hiện làm triệt tiêu hoàn toàn những tác động tích cực hoặc xa rời mục tiêu tái cấu trúc. Việc tái cấu trúc có thể thông qua việc phát hành cổ phiếu, sáp nhập, mua lại, chia, tách, giải thể, cho thuê, phá sản…hoặc các hình thức và phương thức khác phù hợp với doanh nghiệp. Quá trình tái cấu trúc có thể gây ra những ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của những người có liên quan cho nên việc thực hiện cần lường trước những xung đột có thể xảy ra và tìm mọi biện pháp để giảm thiểu.    

Thứ tư, tái cấu trúc phải có lộ trình cụ thể, khoa học và phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và đất nước.

Tái cấu trúc DNNN là một quá trình diễn ra lâu dài và gây ảnh hưởng đến nhiều quan hệ trong xã hội. Những thay đổi nền tảng kinh tế dẫn đến những thay đổi các quan hệ và giá trị xã hội. Chính vì thế, cần xây dựng lộ trình tái cấu trúc theo các quan điểm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với từng loại ngành nghề, lĩnh vực, gắn với những vấn đề về điều chỉnh đội ngũ cán bộ, việc làm của người lao động và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Các quan điểm và lộ trình cần được xây dựng cụ thể và khoa học để bảo đảm tính khả thi, toàn diện với lợi ích cao nhất. Do đó, cần sử dụng chuyên gia và những nhà quản lý có kinh nghiệm, kiến thức và có đủ phẩm chất tham gia xây dựng lộ trình này. Quá trình tái cấu trúc đối với từng doanh nghiệp, từng ngành phải có chương trình cụ thể, rõ ràng, được công bố công khai để các đối tượng hữu quan hiểu cụ thể và tường tận nhằm bảo đảm tiến trình diễn ra có lộ trình, giảm thiểu những tác động xấu về mặt xã hội hoặc những biến động thậm chí rối loạn trong hệ thống DNNN, gây lãng phí nguồn lực và chi phí điều chỉnh.

Từ những quan điểm, định hướng, cần có những hành động và chính sách cụ thể, trong đó quan trọng trước mắt cần thực hiện ngay là cần công khai, minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp, tạo dựng môi trường cạnh tranh thật sự bình đẳng.

PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng

(Đại học Kinh tế quốc dân)

Theo Chính Phủ

.
.
.
.