.
.

Đề xuất mô hình tăng trưởng mới giai đoạn 2012 - 2020

Thứ Tư, 15/02/2012|22:35

Việc xây dựng mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam cần nhất quán các quan điểm: huy động được tổng lực mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - ổn định xã hội; bám sát Cương lĩnh xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa năm 2011 và nên sử dụng mô hình tam giác phát triển để xây dựng mục tiêu ngắn và trung hạn nhằm tăng cường thông tin hai chiều giữa vĩ mô và vi mô, từ đó tạo sự đồng thuận trong xã hội và đánh giá hiệu quả của cơ quan điều hành.

Tận dụng thời cơ, đưa kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận, một khâu trong chuỗi giá trị của một sản phẩm thế giới

Trong 25 năm từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, mô hình phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi quan trọng phù hợp với các điều kiện trong nước và quốc tế, vì vậy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế quốc gia trên quốc tế.

Giai đoạn từ 1986 - 1997: Mô hình tăng trưởng kinh tế khắc phục khủng hoảng của mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mục tiêu của mô hình tăng trưởng kinh tế thời kỳ này là: đáp ứng các yêu cầu ổn định đời sống nhân dân, ổn định kinh tế, ổn định chính trị đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Các đột phá đã được áp dụng gồm: đột phá về tư duy chính trị, tư duy kinh tế để xóa bỏ các ràng buộc về thể chế quản lý kinh tế - quản lý nhà nước từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung; chọn nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu bằng các chính sách qua Chỉ thị 100, Khoán 10 với mục tiêu trong thời gian một nhiệm kỳ Đại hội giải quyết được cơ bản đời sống nhân dân ổn định; chọn ngành sản xuất hàng tiêu dùng làm đột phá với mục tiêu là thay thế hàng nhập khẩu; thực hiện tổng thể các biện pháp chống cấm vận bằng bước đột phá thúc đẩy thương mại Việt – Trung; thực hiện đột phá về nhân sự đổi mới. 

Chỉ trong vòng 5 năm, chúng ta đã ổn định được kinh tế vĩ mô, đời sống nhân dân được cải thiện một bước quan trọng. Từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới. Ổn định và đưa quan hệ Việt – Trung sang một trang mới, tạo tiền đề quan trọng trong việc Mỹ xóa bỏ cấm vận năm 1994 và Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Tăng trưởng kinh tế đã góp phần ổn định xã hội, ổn định chính trị và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.

Giai đoạn 1998 - 2006: mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là tận dụng thời cơ, hướng tới xuất khẩu. Mục tiêu của mô hình này là: tận dụng mọi lợi thế so sánh và điều kiện mở thị trường Mỹ để phát triển nuôi trồng thủy sản, các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động đòi hỏi có tay nghề thấp. Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Các đột phá chính được thực hiện gồm: tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính; đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; ưu đãi với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, dệt may, da giày xuất khẩu.

Thành tựu của giai đoạn này đã góp phần đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu dần vượt qua giá trị GDP cả nước, hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam được thị trường quốc tế chấp nhận. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, thành tích xóa đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tạo được bước đi vững chắc cho nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng một mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam cần nhất quán các quan điểm: huy động được tổng lực mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - ổn định xã hội; tận dụng được các lợi thế của đất nước trong 10 năm tới ổn định chính trị, giá nhân công hợp lý (lương thấp cộng chi phí đào tạo thấp); tận dụng được bối cảnh quốc tế: các nước ASEAN khủng hoảng kéo dài, khu vực và thế giới chưa thoát ra được khủng hoảng năm 2008. Đặc biệt, cần sử dụng mô hình tam giác phát triển để xây dựng mục tiêu ngắn và trung hạn để tăng cường thông tin hai chiều giữa vĩ mô và vi mô để tạo sự đồng thuận trong xã hội và đánh giá hiệu quả của cơ quan điều hành. Đồng thời, phải bám sát Cương lĩnh xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa năm 2011; tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế Việt Nam bằng (tài nguyên) lợi thế của bạn bè.

Có thể gọi tên mô hình phát triển giai đoạn 2012 – 2020 là: tận dụng thời cơ, đưa kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận, một khâu trong chuỗi giá trị của một sản phẩm thế giới. Mục tiêu cao nhất của mô hình tăng trưởng này là đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đến thời điểm này, nền kinh tế nước ta có quy mô tương ứng với Thái Lan năm 2010 về GDP, về cơ sở hạ tầng. Về cơ sở dịch vụ của nền kinh tế tương đương với Singapore năm 2000 về dịch vụ tài chính – ngân hàng và dịch vụ hàng hải logictics. Về hạ tầng viễn thông – công nghệ thông tin trình độ chúng ta tương đương với trình độ các nước thuộc nhóm OECD. Chúng ta trở thành 1 trong nhóm 3-5 nước có sản lượng dệt may – da giày khoảng 30 – 40 tỷ USD/năm ở mảng thị trường số đông. Có công nghiệp chế biến nông thủy sản đáp ứng yêu cầu của các nước G7, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm xanh, không biến đổi gen và phục vụ cho người tiêu dùng có độ tuổi trên 50. Cần xác định rõ, đến năm 2020, cơ sở hạ tầng, dịch vụ... của nước ta sẽ như thế nào. Khi đưa ra các chỉ tiêu phải đồng thời trả lời được 2 câu hỏi: ai sẽ thực hiện các chỉ tiêu đó với nguồn lực tài chính từ đâu? Cần nêu rõ Chính phủ chỉ làm cơ chế chính sách và chọn một số khâu đột phá sử dụng nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Nhưng người thực hiện không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước mà có thể là doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI hoặc của các thành phần kinh tế khác.

Tạo sự đồng thuận trong nhận thức phát triển bền vững

Khi xác định dùng lý thuyết tam giác phát triển làm thước đo góc độ tương thích của mô hình phát triển với các yếu tố xã hội môi trường cần phải xây dựng được lộ trình áp dụng. Cần thống nhất nhận thức lý thuyết phát triển trước hết là một sản phẩm của nghiên cứu khoa học nên phải gắn với một điều kiện lịch sử cụ thể. Các số liệu và kết quả công bố là sản phẩm của một thời điểm với các yếu tố đầu vào là bất biến thì khi kinh tế phát triển mới xác định được các tác động của nó đối với vấn đề bảo vệ môi trường và thực hiện an sinh xã hội. Điều cần lưu ý là vấn đề bảo vệ môi trường chỉ là sự bắt đầu của quá trình bảo vệ sự cân bằng sinh thái của môi trường sống của con người. Nếu ở điều kiện như nước ta hiện nay, nhiều hệ cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ trạng thái ban đầu của nó mà nhiều khi nguyên nhân không trực tiếp từ các hoạt động phát triển kinh tế của nước ta. Một ví dụ điển hình là sự suy thoái chất lượng nước sông Mê Kông đã ảnh hưởng đến số lượng, chủng loại các loại cá ở cuối nguồn, thủy lực dòng chảy của sông thay đổi, lượng phù sa giảm sút làm biến đổi vùng cửa sông gây nhiều thiệt hại cho ngành nuôi trồng thủy sản, ngành giao thông lại không bắt nguồn từ An Giang, Đồng Tháp mà còn ở xa hơn. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam lại là các công trình xây dựng cơ bản, đê bao ngăn lũ, định hướng phát triển nông nghiệp, thủy sản – lúa đã phá vỡ hệ sinh thái ngập lũ điển hình mà hướng tới hệ sinh thái đê bao của miền Bắc làm cho độ màu mỡ của đồng bằng bị giảm, tăng chi phí bảo vệ phòng chống sâu bệnh...

Vấn đề xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế không phải là ở 6% hay 8% mà là với tốc độ nào thì khả năng của nền kinh tế phải chi cho môi trường là ít nhất nhưng vẫn bảo đảm cân bằng sinh thái động của thiên nhiên và quan trọng là tác động tiêu cực ít nhất đến đời sống con người. Sự đầu tư trở lại cho môi trường lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức và ý thức trách nhiệm xã hội của công dân và doanh nghiệp. Ví dụ sự kiện tích nước của một số hồ thủy điện trong khi vẫn còn hơn 20 hộ dân không chịu tái định cư. Vấn đề không phải đây là những nhà đấu tranh vì môi trường, vì sự tồn tại của lá phổi xanh và lo sợ trước sự hình thành một vùng tiểu khí hậu mới do hồ thủy điện tạo ra mà ở đây là sự tính toán về lợi ích kinh tế của các hộ dân với doanh nghiệp. Vì vậy, với một nguồn vốn đầu tư xác định  và tạo ra một nguồn lợi kinh tế thì vấn đề là phân chia lợi nhuận như thế nào? Ai là người được thụ hưởng chính, trực tiếp, hay ai là người thụ hưởng gián tiếp khi phải chuyển đổi nghề, chỗ ở cho phù hợp với sự biến đổi môi trường sống do tác động của phát triển kinh tế. Nếu không tạo được sự minh bạch thì kinh tế càng phát triển, mâu thuẫn trong xã hội ngày càng lớn và càng tiềm ẩn nhiều bất ổn chính trị, xã hội.

Tạo sự đồng thuận trong hội nhập kinh tế quốc tế

Trong nền kinh tế phẳng hiện nay, không có quốc gia nào, không một vùng lãnh thổ nào có thể có lợi thế tuyệt đối. Không một quốc gia nào có thể đóng cửa để sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh mà lại có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy cần phải xác định rõ, vấn đề độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia từ chính trị được thể hiện trong kinh tế như thế nào, có gì khác so với tư duy và nhận thức của thời kỳ trước? Độc lập, tự do thể hiện trong kinh tế ở thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế phải được hiểu là nền kinh tế Việt Nam hay doanh nghiệp Việt Nam tham gia bình đẳng trong việc hình thành một sản phẩm hoàn chỉnh thương hiệu quốc tế. Nguyên liệu chúng ta đưa vào sử dụng để tham gia chế tạo sản phẩm có giá thành hợp lý, bù đắp lại được các bất ổn về môi trường sinh thái do khai thác tài nguyên gây ra đủ để đầu tư tạo một sự cân bằng mới với sự hỗ trợ của công nghệ. Đồng thời đơn giá công nhân trong sản phẩm vừa bù đắp được chi phí lao động tái tạo, đồng thời có tích lũy và đào tạo nâng cao tay nghề và nâng cao đời sống. Thông qua các hoạt động kinh tế, phân chia quyền lợi kinh tế mà làm các nước hiểu Việt Nam hơn, Việt Nam cũng hiểu được mối quan tâm của các nước hơn. Thông qua việc bảo vệ quyền lợi kinh tế hợp pháp hình thành cơ chế phối hợp cùng nhau trên các diễn đàn khu vực và quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là bất biến nhưng phân chia lợi nhuận kinh tế phải theo lợi thế so sánh.

Chỉ có trên nhận thức chung như vậy chúng ta mới giải thích, tạo được sự đồng thuận xã hội khi phải bán than ở miền Bắc và nhập than ở miền Nam. Vấn đề ở đây là hiệu quả kinh tế khi sử dụng lợi thế so sánh. Giá bán chưa quan trọng bằng việc sau khi so sánh cùng 1 khối lượng than như thế nếu vận chuyển từ Quảng Ninh vào miền Tây cao hơn là đi nhập từ nước ngoài thì chúng ta phải nhập. Vấn đề đặt ra ở đây là khai thác tiếp để đổi than lấy than mà vẫn thu được lợi nhuận, tạo ra được việc làm hay là dừng lại không khai thác để dành cho thế hệ sau.

Tạo sự đồng thuận trong việc hình thành quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trong bối cảnh xã hội tin học

Với thực trạng của nền kinh tế nước ta việc quá xác định đầu tư phát triển khoa học cơ bản là một điều không tưởng, gây lãng phí nguồn lực hạn hẹp của đất nước. Trọng tâm của ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ là một đặc thù, ý tưởng mới, sáng kiến mới áp dụng vào sản xuất cũng phải được đãi ngộ như người có vốn, có sức lao động. Trong thời gian tới, lực lượng sản xuất của khối doanh nghiệp nhà nước, của khối có vốn đầu tư nước ngoài và khối dùng vốn của các thành phần kinh tế khác. Như vậy, quan hệ sản xuất trong 3 khối này có gì khác biệt? Trong 10 năm tới, định hướng phải phát triển trên 3 mặt: xây dựng thể chế bảo đảm sự bình đẳng của lực lượng sản xuất của cả 3 khối, tránh tình trạng có sự phân biệt đối xử về lương, về vị thế chính trị trong xã hội với lực lượng sản xuất trong 3 khối; xác định rõ ưu tiên phát triển về số lượng của khối nào hay phát triển dàn hàng ngang. Cuối cùng là tạo một nhận thức mới của xã hội đối với mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, tạo điều kiện hình thành 1 đội ngũ công nhân mới, đội ngũ người lao động có tác phong công nghiệp của thời kỳ công nghệ thông tin song song với hình thành và phát triển 1 đội ngũ những người làm quản lý vi mô, người sử dụng lao động có tri thức, có trách nhiệm xã hội.

Tạo sự đồng thuận về chuyển đổi bộ máy quản lý nhà nước từ chính quyền sản xuất sang chính quyền quản lý

Cần xác định rõ mục tiêu cuối cùng là xây dựng một bộ máy chính quyền làm tốt chức năng quản lý. Có lộ trình cụ thể chuyển mô hình lưỡng tính hiện nay của chính quyền quản lý sản xuất sang chính quyền quản lý nhà nước trong vòng 5 năm tới. Trước mắt trong nhiệm kỳ Đại hội và QH Khóa XIII, cần chủ động thành lập cơ quan quản lý sản xuất theo ngành, lãnh thổ ở một số bộ, địa phương trọng điểm để sang giai đoạn 2016 – 2020 hình thành một cơ quan quản lý vốn – tài sản của nhà nước không nằm trong bộ máy Chính phủ. Theo mô hình này, các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước có trách nhiệm trả lợi nhuận như vay từ ngân hàng thương mại và con số nộp vào ngân sách được công khai kiểm toán. Căn cứ vào nguồn thu ổn định này và Luật Ngân sách Nhà nước, QH và Chính phủ mới tiến hành phân bổ ngân sách ổn định trong một thời kỳ. Có như vậy mới tăng cường được sự minh bạch trong chi tiêu công, góp phần làm giảm môi trường tiêu cực tham nhũng. Có như vậy xã hội mới giám sát được doanh nghiệp nhà nước và có đánh giá đúng mức, đãi ngộ thỏa đáng với đội ngũ các nhà quản trị trong doanh nghiệp nhà nước.

Như vậy, Chính phủ sẽ chuyển hẳn sang nhiệm vụ quản lý chung của đất nước, không can thiệp vào công việc sản xuất của doanh nghiệp. Những sự kiện trong 2 năm qua ở Vương quốc Bỉ là một ví dụ minh chứng rõ trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Chính phủ là ở ban hành chính sách và bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho người dân. Còn các doanh nghiệp tự vận động theo hành lang pháp lý đã công bố để lập kế hoạch sản xuất, phát triển doanh nghiệp và thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chính vì vậy 2 năm qua với Chính phủ lâm thời, nền kinh tế Bỉ vẫn vận hành tốt và là một trong số các quốc gia có chỉ số kinh tế vĩ mô tương đối tốt trong khu vực sử dụng đồng EURO.

Nhiệm vụ quan trọng nhất của việc chuyển đổi mô hình phát triển của Chính phủ là xác định: đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế để có định hướng thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế trên 3 khâu đột phá đã được Hội nghị Trung ương 3 (Khóa XI) xác định là: đầu tư công – doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại. Ba khâu đột phá tái cơ cấu phải lấy mục tiêu tách dần nhiệm vụ sản xuất từ Chính phủ về doanh nghiệp, Chính phủ sử dụng đầu tư công như là một đòn bẩy có tính chất định hướng phát triển theo kế hoạch của Chính phủ. Bên cạnh đó tái cơ cấu khối ngân hàng thương mại cổ phần là bảo đảm huy động nguồn lực xã hội cho phát triển để chia sẻ với nhà nước trong những ngành, lĩnh vực sinh lợi. Đồng thời cũng là một kênh giám sát thẩm định quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nói riêng, của toàn xã hội nói chung.

Ts Nguyễn Đức Kiên
Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
Theo Đại biểu nhân dân
.
.
.
.