Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương - năm 2022
VẬN DỤNG NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 - KHÓA XIII VÀO THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Nỗ lực lan tỏa tính tích cực trong thực thi nhiệm vụ
Trải qua chặng đường 16 năm hoạt động, với một tập thể ban đầu hơn 3.000 cán bộ viên chức, người lao động (CBVC), Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT) đã không ngừng nỗ lực, đoàn kết, vượt qua thách thức, hoàn thành nhiệm vụ được giao và đã từng bước phát huy vai trò của một ngân hàng chính sách của Chính phủ, trở thành một định chế tài chính quan trọng trong huy động, cung cấp nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà. “Vốn tín dụng đầu tư do NHPT giải ngân trong giai đoạn vừa qua chiếm gần 4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng khoảng 1,5% GDP”. Hàng trăm chương trình, hàng nghìn dự án được đầu tư từ nguồn vốn tín dụng của Nhà nước thông qua NHPT, đã hoàn thành, vận hành phát huy hiệu quả, góp phần mang lại diện mạo mới, vị thế mới cho từng vùng miền của Tổ quốc; cho đất nước phát triển vươn xa. Cùng với đó, còn là hệ thống cơ chế, chính sách tín dụng của Nhà nước được nghiên cứu, hình thành, áp dụng vào thực tiễn, dần hoàn thiện trong hơn hai thập niên triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước, kể từ thời kỳ Quỹ Hỗ trợ đầu tư Quốc gia và tổ chức tiền thân; góp phần hiện thực hóa và hoàn thiện lý luận về thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có thể nói, kết quả hoạt động của NHPT gắn liền với kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm của đất nước, đã được Đảng và Chính phủ ghi nhận.
Bước vào thời kỳ mới, với những yêu cầu thực tiễn khách quan đặt ra cho NHPT – với tư cách là một ngân hàng chính sách, một định chế tài chính đặc thù – phải tự làm mới phù hợp với bối cảnh tình hình, tạo bước chuyển mình mang tính đột phá, đủ sức đảm đương và hoàn thành sứ mệnh là một công cụ quan trọng trong phục vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ theo Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 – đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 (gọi tắt là Chiến lược 369).
Đại hội Đại biểu Đảng bộ NHPT lần thứ III – nhiệm kỳ 2020 – 2025, đã thống nhất ban hành Nghị quyết với mục tiêu tổng quát của nhiệm kỳ tới: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cơ cấu lại tổ chức và hoạt động; phát huy vai trò trong hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước”. Chương trình hành động của Đảng ủy NHPT số 03-CTr/ĐU ngày 02/10/2020 đề ra 06 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có “Lãnh đạo việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của NHPT; quyết liệt thực hiện các giải pháp tái cơ cấu hoạt động; xây dựng mô hình tổ chức NHPT, củng cố và phát huy vai trò, vị thế của NHPT là công cụ của Chính phủ để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước”.
Đề án tái cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu NHPT giai đoạn 2019 - 2021 theo Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 31/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Đề án 48) đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả bước đầu tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo khi cơ chế, cơ sở pháp lý được ban hành đồng bộ. Hiện tại, toàn hệ thống đang tập trung thực hiện Chương trình hành động hướng tới thực hiện Đề án cơ cấu lại NHPT, ban hành theo Quyết định số 35/QĐ-NHPT ngày 31/3/2022 của Hội đồng quản trị (gọi tắt là Chương trình 35), với 06 mục tiêu, 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cùng 36 đầu việc. Tất cả đã và đang được triển khai đồng bộ, đồng thời, quyết liệt, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, người lao động trong hệ thống gắn với vai trò, chức trách được giao. Thực hiện Chương trình 35, gắn với yêu cầu triển khai cụ thể hóa tinh thần các NQTW 5 – Khóa XIII, được xem là việc làm thiết thực của NHPT góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Bài viết “Vận dụng Nghị quyết Trung ương 5 – Khóa XIII vào thực tiễn triển khai nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam”, là tác phẩm dự thi Giải báo về công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ NHPT theo tinh thần văn bản số 427-CV/ĐU ngày 04/7/2022; hưởng ứng Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ VII – năm 2022, theo kế hoạch số 59-KH/BTCTW ngày 28/02/2022 của Ban Tổ chức Trung ương và Kế hoạch số 48-KH/ĐUK ngày 27/5/2022 của Đảng ủy Khối DNTW. Tiếp cận vấn đề với nhận thức mới, từ góc nhìn cơ sở, chúng tôi xem đây là cơ hội quý báu để góp phần quảng bá hoạt động của NHPT với những bước đi linh hoạt, thích ứng bối cảnh, tình hình mới nhằm nâng cao hiệu quả chính sách TDĐT của Nhà nước; lan tỏa tính tích cực trong thực thi nhiệm vụ mà mỗi tập thể, mỗi CBVC trong hệ thống NHPT đã, đang và sẽ tiếp tục nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược 369, gắn với cụ thể hóa và thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết Đảng bộ các cấp.
Tin tưởng rằng, bằng sự tâm quyết, trách nhiệm của mỗi CBVC trong hệ thống NHPT, giải Báo chí về xây dựng Đảng trong Đảng bộ NHPT năm 2022, sẽ thành công, mang lại sinh khí mới, giá trị mới. Đóng góp vào sự thành công chung của Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ VII – năm 2022. Củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chinh phục “khát vọng Việt Nam hùng cường”.
Hội nghị Trung ương 5 – Khóa XIII và những định hướng cơ bản
Như chúng ta đã biết, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, họp từ ngày 04/5 đến ngày 10/5/2022 (gọi tắt là HNTW 5 – Khóa XIII) đã thảo luận thông qua nhiều nội dung quan trọng, trong đó có việc ban hành 04 nghị quyết: (1) Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao (NQ18). (2) Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (NQ19). (3) Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới (NQ20). (4) Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới (NQ21).
Nội dung các Nghị quyết được HNTW – Khóa XIII (NQTW 5 – Khóa XIII) đề cập đến các vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, liên quan đến các lĩnh vực vừa cụ thể, vừa rất rộng lớn; cơ bản, hết sức phức tạp, nhạy cảm; đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững đất nước, đến nền tảng của Đảng. Đó là những vấn đề thực tiễn đã và đang đặt ra hết sức gay gắt ở nước ta, đòi hỏi phải nhanh chóng giải quyết để góp phần tạo tiền đề, nguồn lực vững chắc cho phát triển đất nước trong hiện tại và tương lai; cả về phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Qua đó, cho thấy rõ quan điểm, đường lối của Đảng đối với những vấn đề về phát triển kinh tế, xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay - không chỉ là tầm nhìn mà còn là quyết sách tháo gỡ những vấn đề “nóng” trong cuộc sống.
Nghiên cứu, học tập, quán triệt nội dung các nghị quyết của Đảng nói chung, các NQTW 5 – Khóa XIII nói riêng, là dịp để nâng cao nhận thức, kiến thức, hành động của mỗi người, nhất là cán bộ đảng viên (ĐV), trong mỗi tổ chức cơ sở Đảng (CSĐ), cơ quan, đơn vị. Đây không chỉ là trang bị lý luận, mà còn là lăng kính để mỗi cá nhân, mỗi tổ chức soi rọi lại chính mình, nhìn về phía trước, vững bước trên hành trình thực thi nhiệm vụ, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Một số nội dung cơ bản của các NQTW5 – Khóa XIII:
1. NQ18: Có 05 quan điểm chỉ đạo; 03 mục tiêu, 02 mốc thời gian và 06 nhóm nhiệm vụ giải pháp. Về quan điểm chỉ đạo: (i) Đất đai (ĐĐ) thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. (ii) Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt. (iii) Thể chế, chính sách về ĐĐ phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). (iv) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về ĐĐ. (v) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về ĐĐ.
Mục tiêu chung là phải hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nguồn lực ĐĐ được quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường QSDĐ, trở thành kênh chủ yếu phân bổ ĐĐ hợp lý, công bằng, hiệu quả. Đến năm 2025, hoàn thành việc sửa đổi Luật đất đai 2013 và một số luật liên quan; xây dựng cở sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia về ĐĐ; kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước (QLNN) về ĐĐ; giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc về ĐĐ. Đến năm 2030, hệ thống pháp luật về ĐĐ được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khắc phục bằng được tình trạng lãng phí, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc trong quản lý, sử dụng ĐĐ do lịch sử để lại.
NQ18 yêu cầu phải thống nhất nhận thức trong cán bộ ĐV và nhân dân về quản lý và sử dụng đất. Coi ĐĐ là nguồn lực, là tài sản đặc biệt của quốc gia và không phải là vô tận; quản lý, sử dụng đất đai là lĩnh vực rộng lớn, cơ bản, hết sức nhạy cảm, đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. QLNN về ĐĐ phải có tâm, có tầm; thật sự bài bản khoa học trong quản lý, bố trí, sử dụng ĐĐ; bình tĩnh trong ứng xử, xử lý những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Thể chế, chính sách quản lý và sử dụng ĐĐ phải đồng bộ, phù hợp, “bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, người dân và nhà đầu tư, tạo nguồn lực và động lực mới để phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
2. NQ19: Trung ương đánh giá sau 15 năm thực hiện NQTW 7 – Khóa X về Nông nghiệp – Nông thôn – Nông dân (NQ 19-NQ/TW ngày 31/10/2012), nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, nhất là cơ cấu lại nông nghiệp (NN), xây dựng nông thôn mới (NTM), đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa NN, nông thôn (NT) và cải thiện đời sống nông dân, cư dân nông thôn (ND), thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện thành công những mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII, HNTW 5 – Khóa XIII đã thống nhất ban hành NQ19 mới, với 05 quan điểm chỉ đạo; 07 chỉ tiêu (cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045); 09 nhóm nhiệm vụ giải pháp.
Về quan điểm chỉ đạo, (i) Trung ương khẳng định NN-NT-ND là ba thành tố có quan hệ mật thiết; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho NN-NT-ND, bảo đảm sự phát triển bền vững, hướng tới “NN sinh thái, NT hiện đại, ND văn minh”. (ii) ND là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển NN, kinh tế NT và xây dựng NTM. Mục tiêu cao nhất trong phát triển NN, NT là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của ND. (iii) NN là lợi thế, là trụ đỡ của nền kinh tế. Phát triển NN hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến. Chuyển mạnh từ tư duy sản xuất NN sang phát triển kinh tế NN gắn với nhu cầu thị trường. (iv) Xây dựng NT hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. (v) Phát triển toàn diện NN-NT-ND là trách nhiệm, nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tinh thần chung của NQ19 là “phải nhận thức thật đầy đủ và đúng đắn hơn nữa về vị trí, vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của phát triển NN, ND, NT đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; coi đây là cơ sở, lực lượng đặc biệt quan trọng để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam”.
3. NQ 20: Tổng kết 20 năm thực hiện NQTW 5 – Khóa IX (NQ số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT), Trung ương đánh giá “Khu vực KTTT nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển KTTT, Hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được quan tâm xây dựng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển…KTTT từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân”. Tuy nhiên, khu vực này vẫn chưa đạt mức phát triển như mục tiêu, yêu cầu đề ra. Do vậy, HNTW 5 – Khóa XIII ban hành NQ20 để KTTT ngày càng phát triển mạnh hơn, thực sự trở thành một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. NQ20 có 05 quan điểm; 10 chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và năm 2045; 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp.
Về quan điểm chỉ đạo: (i) KTTT là thành phần kinh tế quan trọng, phải được củng cố và phát triển cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. (ii) KTTT có nhiều hình thức (tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX), liên hiệp HTX,…), trong đó HTX là nòng cốt; lợi ích kinh tế là trọng tâm, lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội được coi trọng. (iii) KTTT phát triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên và sở hữu chung của tập thể. Thành viên KTTT bao gồm các thể nhân và pháp nhân, cùng góp vốn, góp tài sản, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. (iv) Có chính sách ưu tiên cho các tổ chức KTTT trong lĩnh vực NN, gắn hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức. (v) Phát triển KTTT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Mục tiêu tổng quát là phát triển KTTT năng động, hiệu quả, bền vững, cùng với KTNN trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đến năm 2030, (i) Cả nước có khoảng 140.000 tổ hợp tác, với 2 triệu thành viên; (ii) 45.000 HTX với 8 triệu thành viên; (iii) 340 liên hiệp HTX với 1.700 HTX thành viên; (iv) Bảo đảm trên 60% tổ chức KTTT đạt loại tốt, khá (ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi giá trị). (v) Trên 5.000 HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm NN.
Đến năm 2045: (i) Tối thiểu 20% dân số tham gia các tổ chức KTTT. (ii) Mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức KTTT, chất lượng hoạt động ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới. (iii) Bảo đảm trên 90% tổ chức KTTT hoạt động hiệu quả (ít nhất 75% tham gia các chuỗi liên kết). (iv) Có ít nhất 3 tổ chức KTTT nằm trong bảng xếp hạng 300 HTX lớn nhất toàn cầu. (v) Các tổ chức KTTT đều áp dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Trong thời gian tới phải tiếp tục quán triệt, nhận thức sâu sắc, đầy đủ, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII và NQ20 phù hợp với yêu cầu, tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTT. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động KTTT. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với KTTT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và Liên minh HTX.
4. NQ21: Khai mạc HNTW 5, khi đề cập đến vấn đề xây dựng CSĐ và ĐV, Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng nhấn mạnh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đều rất quan tâm, chú trọng theo đúng tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các ĐV đều tốt”. Tuy nhiên, nhiều nơi chi bộ chưa thể hiện được vai trò là hạt nhân chính trị, tiên phong, gương mẫu; một bộ phận ĐV còn suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng.
Trên cơ sở tổng kết NQ22-NQ/TW ngày 02/02/2008 – Khóa X và Kết luận 38-KL/TW ngày 13/11/2018, HNTW 5 – Khóa XIII đã thống nhất ban hành NQ21 với 03 quan điểm chỉ đạo; 03 chỉ tiêu cụ thể gắn với 02 mốc thời gian (đến năm 2025 và 2030); 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Về quan điểm chỉ đạo, (i) Trung gương khẳng định CSĐ là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng CSĐ phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị . Xây dựng CSĐ trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ ĐV là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, ĐV nhằm củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. (ii) Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của CSĐ phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đề cao tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". (iii) ĐV là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của CSĐ. Tạo môi trường để ĐV rèn luyện, phấn đấu; mỗi ĐV phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển ĐV. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa ĐV không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Mục tiêu tổng quát của NQ21 là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của CSĐ và chất lượng ĐV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Ba chỉ tiêu cụ thể: (i) Hằng năm, trên 90% CSĐ, ĐV được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. (ii) Kết nạp ĐV mới hằng năm đạt tỷ lệ từ 3 - 4% tổng số đảng viên. (iii) Phấn đấu 100% thôn, bản có ĐV (đến năm 2025); 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ (đến năm 2030). Bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp: (i) Củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của CSĐ. (ii) Nâng cao chất lượng đội ngũ ĐV. (iii) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. (iv) Phát huy vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, nâng chất CSĐ, ĐV.
NQ21 khẳng định việc xây dựng, nâng chất CSĐ và ĐV là vấn đề hệ trọng, cần có giải pháp đột phá nhằm tạo chuyển biến tích cực cả nhận thức và hành động. Yêu cầu đánh giá, xếp loại đối với CSĐ, ĐV phải thực chất, sát thực và khách quan. Phải thật sự xem trọng vai trò của quần chúng nhân dân; giữ mối quan hệ mật thiết giữa CSĐ, ĐV với nhân dân; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng CSĐ, ĐV. Đặt trong bối cảnh tình hình mới, thì việc xây dựng, nâng chất CSĐ, ĐV phải được chú trọng nâng tầm từ nhận thức đến hành động để đạt được thực chất hơn, triệt để hơn và mang lại hiệu quả thiết thực hơn.
Vận dụng các NQTW 5 – Khóa XIII vào thực tiễn triển khai thực hiện nhiệm vụ của NHPT
Tổ chức thực hiện thành công các NQTW 5 – Khóa XIII mang ý nghĩa to lớn, góp phần giải quyết nhiều mối quan hệ cơ bản, đó là: Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế với xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; giữa ổn định và phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Để thiết thực góp phần đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, mỗi CSĐ, cơ quan, đơn vị; mỗi cá nhân, trước hết là cán bộ ĐV, cần:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền học tập, nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết với nhiều phương pháp thiết thực, cách làm hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng, không sơ cứng gò ép, qua loa đại khái. Triển khai đồng bộ “từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài”, không chỉ tính theo ngày mà phải là xuyên suốt, là quá trình gắn với việc làm theo từng vị trí, chức trách; đảm bảo nguyên tắc “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.
Thứ hai, đề cao tính gương mẫu, tự trọng, tự giác của mỗi cán bộ ĐV, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, người đứng đầu mỗi cấp, mỗi đơn vị trong học tập, quán triệt, nghiên cứu thực thi nhiệm vụ gắn với tinh thần từng nghị quyết. Tập hợp được sự đồng tình, đồng thuận, hưởng ứng của cán bộ ĐV và quần chúng, đoàn kết, nỗ lực thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ chung.
Thứ ba, chú trọng xây dựng chương trình hành động, kế hoạch công tác sát với đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp chức trách, nhiệm vụ, đúng quan điểm của Đảng, nhất là giải quyết, xử lý những vướng mắc, tồn tại trong nhiều năm qua và đang là vấn đề “nóng”. Không chủ quan, đại khái, đối phó “có để báo cáo” mà phải xuất phát từ thực tiễn. Nhưng cũng không cao siêu, giáo điều, duy ý chí, sáo rỗng mới không bị lạc lỏng trong đón nhận, thực thi và thành công.
Thứ tư, mỗi CSĐ, mỗi cá nhân cần chủ động, trách nhiệm trong tham gia, tham mưu, đề xuất cấp thẩm quyền thể chế hóa, hiện thực hóa quan điểm trong từng nghị quyết bằng các chính sách, cơ chế, nguồn lực phù hợp (trước hết là của Nhà nước và của toàn xã hội). Thực hiện mạnh mẽ phân cấp, phân quyền trên cơ sở phân công hợp lý, gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát kiểm soát quyền lực, có khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, đúng pháp luật.
Nếu với mỗi CSĐ, mỗi đơn vị các cấp phải xây dựng chương trình hành động, kế hoạch công tác phù hợp với chức năng nhiệm vụ, đặc thù hoạt động,…góp phần đưa nghị quyết vào cuộc sống bằng việc làm cụ thể, thiết thực, đúng mực, trách nhiệm. Thì với mỗi cá nhân, dù đang làm công việc gì, giữ cương vị nào cũng cần đào sâu, nghiên cứu với phương pháp phù hợp nhất, tìm cho mình góc nhìn riêng thực tiễn, biện chứng về tinh thần cốt lõi của mỗi nghị quyết. Tất nhiên, cán bộ ĐV, nhất là những người có chức vụ, nắm giữ trọng trách ở các cơ quan, đơn vị, CSĐ càng phải nêu cao nhận thức, tính gương mẫu, đề cao trách nhiệm “học đi đôi với hành”.
NHPT với tư cách là một ngân hàng chính sách của Chính phủ, một công cụ quan trọng trong điều tiết nguồn lực tài chính quốc gia thông qua tổ chức thực hiện chính sách cho vay tín dụng đầu tư (TDĐT) của Nhà nước (kể cả nguồn vốn vay nước ngoài - ODA) và một số nhiệm vụ khác mang tính đặc thù trong hỗ trợ phát triển nền kinh tế. Do vậy, NHPT có vai trò nhất định trong nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cụ thể hóa một số nội dung NQTW 5 – Khóa XIII gắn với chức năng, nhiệm vụ, phù hợp bối cảnh mới, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Có thể nói, bối cảnh mới với NHPT chính là củng cố, nâng chất tổ chức, bộ máy, nguồn lực phù hợp với tình hình, yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới. Hay nói khác đi, với tư cách là tổ chức thực thi chính sách TDĐT, NHPT cần phải nhìn lại, đánh giá toàn diện kết quả, hiệu quả hoạt động, kể cả xử lý tồn tại, yếu kém; định hình tổ chức bộ máy, xác định lại sứ mệnh, tầm nhìn; hoạch định chính sách, hành lang pháp lý; xác định bước đi, nguồn lực;…góp sức phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo tinh thần Nghị quyết XIII của Đảng.
Nhận thức được trọng trách đó, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ NHPT lần thứ III đã xác định “ba trụ cột” trong nhiệm vụ phải tập trung thực hiện: (1) Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh; (2) Đẩy mạnh cơ cấu lại tổ chức, bộ máy và hoạt động; (3) Phát huy vai trò ngân hàng chính sách trong hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Mục tiêu tổng quát đã bám sát, quán triệt tư tưởng, định hướng của văn kiện đại hội Đảng cấp trên, phù hợp với điều kiện cụ thể của NHPT trong giai đoạn mới, với trọng tâm tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2019 - 2021 theo Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 31/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Đề án 48), gắn với Chiến lược phát triển NHPT đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030 được ban hành theo Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ (Chiến lược 369).
Hơn 2 năm thực hiện Đề án 48, NHPT đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm vụ quan trọng. Tổ chức bộ máy cơ bản được tinh gọn về đầu mối và nhân lực. Cụ thể, giảm 51,6% đơn vị tham mưu giúp việc ở Trụ sở chính (15/31); giảm 31,8% Chi nhánh, Sở Giao dịch ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (30/44); nhân sự giảm khoảng 20% so với thời điểm 31/12/2018. Công tác quản trị, điều hành có bước chuyển về chất, hướng tới chuyên nghiệp, chuẩn mực, thông lệ của các tổ chức tín dụng; từng bước thiết lập mô hình quản trị phù hợp thông lệ quốc tế đối với tổ chức tín dụng và ngân hàng chính sách. Công tác thu hồi, xử lý nợ đạt được kết quả bước đầu, tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo khi cơ chế, cơ sở pháp lý được cấp thẩm quyền ban hành.
Sau Đề án 48, căn cứ vào kết luận chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tài chính (Thông báo số 102/TB-BTC ngày 08/02/2022), NHPT đã xây dựng, ban hành và đang tập trung thực hiện “Chương trình hành động của NHPT hướng tới thực hiện Đề án cơ cấu lại NHPT”, theo Quyết định số 35/QĐ-NHPT ngày 31/3/2022 của Hội đồng quản trị (gọi tắt là Chương trình 35), với 06 mục tiêu, 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và 36 đầu việc chi tiết.
Cụ thể, về mục tiêu: (i) Tập trung nghiên cứu, tham mưu để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định việc cơ cấu lại mô hình tổ chức hoạt động. (ii) Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành và hệ thống kiểm soát nội bộ. (iii) Cơ cấu lại các hoạt động nghiệp vụ, tập trung quản lý vốn ODA và cho vay TDĐT theo nguyên tắc thị trường. (iv) Quyết liệt xử lý thu hồi nợ, giảm nợ quá hạn, nợ xấu. (v) Tiếp tục cố gắng lành mạnh hóa tình hình tài chính. (vi) Tăng cường công tác thông tin, truyền thông.
Trong 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp được đề ra, có 03 nhóm được coi là cơ bản nhất: Thứ nhất, cơ cấu lại mô hình hoạt động, lành mạnh hóa tình hình tài chính (09 đầu việc). Thứ hai, củng cố nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành và hệ thống kiểm soát nội bộ (13 đầu việc). Thứ ba, xử lý thu hồi nợ (06 đầu việc). Tất cả đã và đang được tổ chức thực hiện với tinh thần khẩn trương, quyết liệt, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, người lao động trong hệ thống gắn với vai trò, chức trách được giao.
Triển khai thực hiện Chương trình 35, một số đầu việc cụ thể đòi hỏi NHPT cần phải vận dụng/ áp dụng cơ chế, chính sách, pháp luật mới hoặc sẽ được sửa đổi, bổ sung theo tinh thần các NQTW 5 – Khóa XIII. Với NQ18, đó là việc nghiên cứu tham mưu, đề xuất cấp thẩm quyền các nội dung liên quan đến việc nhận, xử lý thu hồi nợ bằng tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất; thanh lý cơ sở nhà đất thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu của NHPT nay không còn nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả gắn với tiến trình sắp xếp, cơ cấu lại theo Đề án 48…
Với NQ19, NQ20 là nghiên cứu tham mưu, đề xuất chính sách ưu tiên cho vay hoặc bảo lãnh đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực NN, NT; dự án đầu tư của các chủ đầu tư thuộc thành phần KTTT,…thông qua việc tham mưu sửa đổi, bổ sung nội dung Nghị định số 32/2011/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về TDĐT, Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn tại ngân hàng thương mại. Nghiên cứu xây dựng, đề xuất cơ chế huy động nguồn lực để thực hiện chính sách TDĐT theo hướng ưu tiên phát triển những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Nông dân văn minh – Nông nghiệp sinh thái – Nông thôn hiện đại”. Đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút nguồn lực, hỗ trợ phát triển bảo đảm tính công bằng, đồng đều, đồng hành, đồng hưởng thụ lợi ích chung đúng quan điểm của Đảng đối với các địa phương, địa bàn đang “nhận lãnh trách nhiệm là vựa lúa, vựa tôm cá, rừng cây,…vì mục tiêu an ninh lương thực, đảm bảo môi sinh cho quốc gia và nghĩa vụ quốc tế”. Trong nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn bản quản trị nội bộ (Quy chế cho vay, Quy chế bảo đảm tiền vay, Quy định về xử lý rủi ro,…) cũng phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, sát thực tiễn, có thể triển khai mang lại hiệu quả.
Khu vực NN, NT còn có nhiều nhóm sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm chế tác của tiểu thủ công nghiệp có khả năng đưa vào thị trường. Những ngành này, tuy quy mô nhỏ nhưng gắn liền với loại tài nguyên bản địa, mang cấu trúc đặc trưng mỗi vùng miền, liên quan với những nhóm lao động gắn với ngành nghề riêng. Bài học phát triển các chuỗi chế biến lúa gạo, thủy sản cần được nghiên cứu để thúc đẩy đầu tư với các chuỗi ngành quy mô nhỏ, công nghiệp địa phương, công nghiệp nông thôn. Hướng đi này khai thác được nguồn lực tại chỗ bao gồm lao động, ngành nghề và sản vật mang tính đặc thù. Chương trình OCOP là hướng đi tốt cho sự phát triển nền kinh tế địa phương năng động, đa dạng. Do vậy, chính sách TDĐT cần nhận diện và đi sát vào thực tiễn ấy.
Quá trình thảo luận ở HNTW 5 – khóa XIII về chính sách khuyến khích, hỗ trợ KTTT, một số ý kiến lưu tâm đến việc xác định nguồn lực phải rõ ràng, đối tượng phải đúng trọng tâm để có thể có giải pháp đúng trong xây dựng chính sách tín dụng, nhất là tín dụng chính sách. Từ thực tiễn triển khai thực hiện chính sách TDĐT thời gian qua cho thấy, chỉ khi xác định rõ nguồn lực (từ đầu? khi nào? bao nhiêu?) mới có được giải pháp huy động, bố trí sử dụng đúng và trúng; là cơ sở bảo đảm, quyết định đến kết quả, hiệu quả cuối cùng. Và phải có sự đồng lòng, đồng hành, đồng nhịp của các cơ quan, đơn vị chức năng trong tham mưu thiết kế chính sách, bố trí nguồn lực đồng bộ, kịp thời, khả thi.
Với NQ21, yêu cầu đặt ra là phải thật sự coi trọng, chú trọng phát huy vai trò CSĐ. Nếu coi CSĐ là “nền móng của ngôi nhà” thì “khung đà” chính là ĐV, nhất là ĐV giữ cương vị chủ chốt. Cả nước hiện có trên 52 ngàn CSĐ với khoảng 5,2 triệu ĐV, chiếm 5,4% dân số. HNTW 5 lần này tiếp tục xem đây là vấn đề hệ trọng nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trước những biến chuyển mới. Củng cố, nâng chất chính là yêu cầu không chỉ cho hiện tại mà cả lâu dài. Trong đó, việc xác định mô hình quản lý CSĐ nào cho phù hợp, hiệu quả cũng được xem là vấn đề mấu chốt. Được biết, Quy định số 60-QĐ/TW ngày 08/3/2022 của Trung ương về về tổ chức Đảng trong các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại Nhà nước, đã và đang được triển khai trên phạm vị cả nước. Đây cũng là nội dung quan trọng đối với củng cố, nâng chất, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng bộ NHPT.
Đảng bộ NHPT đang nỗ lực hướng tới xây dựng mô hình Đảng bộ toàn ngành, gắn với quá trình cơ cấu lại tổ chức, bộ máy (hiện mới có 29 CSĐ thuộc, trực thuộc, với 997 ĐV, còn lại đang thuộc Đảng bộ địa phương). Yêu cầu đặt ra là xác lập được mô hình “phù hợp với đặc thù hoạt động và yêu cầu nhiệm vụ toàn hệ thống, đảm bảo tính song trùng trong lãnh đạo của Đảng bộ NHPT/Hội đồng quản trị và cấp ủy, chính quyền trên địa bàn các tỉnh, thành phố”. Về công tác phát triển ĐV, từ lâu đã được Cấp ủy đảng các cấp chú trọng, thực hiện tốt cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, cũng cần nghiêm túc nhìn nhận có nơi, có lúc vì chạy theo chỉ tiêu hoặc nhiều nguyên nhân khác mà chưa thật sự chú trọng đến chất lượng theo nguyên tắc “so bó đũa, chọn cột cờ”, không ít ĐV chưa phải là nhân tố xuất sắc, trưởng thành, nổi trội được phát hiện từ các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Từ đó, tính tiên phong “ĐV đi trước” không rõ nét, nhất là khi đối diện với những vấn đề khó, họ ít có tiếng nói hoặc không năng động “xung phong” tham gia, hiến kế mà chọn “thế thủ an toàn”,…phần nào làm lu mờ vai trò, giảm niềm tin của quần chúng không chỉ với họ mà còn ảnh hưởng đến uy tín CSĐ. Ngoài ra, chỉ tiêu số lượng phát triển ĐV mới trong thời gian tới sẽ là thách thức với NHPT trong tiến trình thực hiện Đề án 48, Chương trình 35 nhằm nâng cao năng lực thực thi chính sách TDĐT trong giai đoạn mới. Cụ thể, theo Nghị quyết Đại hội III của NHPT, chỉ tiêu đề ra là mỗi năm kết nạp từ 25 ĐV mới trở lên, đây là nhiệm vụ khó. Nếu xác định theo NQ21, để đạt tỷ lệ hàng năm có từ 03 đến 04% ĐV mới được kết nạp lại càng khó hơn, vì nhân sự NHPT thời gian qua đã giảm mạnh, hiện đang tiếp tục rà soát, tinh giảm. Khi chỉ tiêu tuyển dụng mới nhân sự chưa được đặt ra thì chắc chắn đâu đó trong các CSĐ thuộc, trực thuộc sẽ khó khoặc không có nguồn để giới thiệu, bồi dưỡng, kết nạp Đảng. Đây không còn là viễn cảnh mà đã hiện hữu, cần bám sát phương châm “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, đề ra chỉ tiêu phù hợp và có giải pháp đúng.
NQ21 cũng nhận mạnh đến vai trò giám sát của nhân dân trong xây dựng Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của CSĐ; công tác cán bộ là một giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Thiết nghĩ, để thực hiện điều đó, phải có dân chủ thực chất, công khai trong công tác cán bộ; không chỉ lấy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị và mức độ uy tín tập hợp quần chúng làm thước đo năng lực cán bộ ĐV, mà cần chú trọng đến thái độ và hiệu quả công việc của họ. Cùng với đó, phải mạnh dạn sàn lọc thông qua đánh giá, rà soát không chỉ theo định kỳ, mà cần có đột xuất; bằng sự phân công, giao việc “có thử thách” thái độ, năng lực; bằng thăm dò, khảo sát, giám sát của quần chúng. Kịp thời phát hiện những “con sâu” để “loại ra” khỏi CSĐ, bởi thực tiễn cho thấy khi xảy ra sự kiện, vụ việc gây hậu quả sẽ phải gánh tổn thất lớn. Nên coi “có vào, có ra” là điều bình thường, là lẽ tự nhiên nhằm làm trong sạch đội ngũ, mang lại hiệu quả thiết thực nhất trong xây dựng, củng cố nâng chất CSĐ.
Quá trình cơ cấu lại NHPT, trong đó cơ cấu lại tổ chức bộ máy, sắp xếp lại đội ngũ CBVC, tinh giản biên chế theo Đề án được phê duyệt tại Quyết định số 65/QĐ-NHPT ngày 08/4/2020, được coi là bước đi ban đầu, quan trọng nhất đã được NHPT triển khai thực hiện. Thực tiễn chứng minh rằng, yếu tố con người quyết định mọi thành bại nhưng lại là vấn đề gắn liền với những “nhạy cảm”. Do vậy, “giải pháp của các giải pháp” là phải quán triệt, tuyên truyền để CBVC, nhất là ĐV, cán bộ chủ chốt các cấp nhận thức sâu sắc, toàn diện, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gắn với thực hiện nghiêm túc NQ21; thấu hiểu khó khăn của Ngành, của đơn vị, nắm bắt cơ hội mới với sự đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động. Song song đó, công tác truyền thông đối ngoại phải được chú trọng, thực hiện thật tươm tất để tạo được đồng thuận xã hội rằng “NHPT luôn nỗ lực đổi mới, phát triển cùng đất nước”.
Sự chỉn chu, cẩn trọng trong mỗi bước đi, quy tụ được sức mạnh của tập thể CBVC không đơn thuần là phương châm, lời “hiệu triệu” mà là cơ sở để tập hợp sự đoàn kết, nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu phía trước. Nếu Đại hội lần thứ II được xác định là “Đại hội khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới của NHPT”, thì Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 2020 - 2025 được kỳ vọng là “Đại hội định hình rõ nét về NHPT theo Chiến lược 369”. Nửa nhiệm kỳ đã qua, khá nhiều công việc được thực hiện nhưng vẫn còn đó không ít những bộn bề, để thành công nhất thiết phải có CSĐ vững, ĐV giỏi và NQ21 chính là cơ hội.
Tin tưởng rằng, bằng những việc làm thiết thực, cụ thể hóa nội dung các NQTW 5 – Khóa XIII vào thực tiễn triển khai nhiệm vụ, phù hợp với bối cảnh mới, gắn với triển khai thực hiện Chương trình 35, sẽ nâng tầm Đảng bộ NHPT, đủ sức lãnh đạo thực hiện thành công mục tiêu “củng cố vai trò, vị thế của NHPT”, thiết thực góp phần đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống!
LÊ NGỌC CHÂU
Chi nhánh Ngân hàng Phát triển - Khu vực Sông Tiền