.
.

Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2023

Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương

Thứ Sáu, 24/11/2023|15:44

Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương được thành lập theo Quyết định số 48-QĐ/TW, ngày 11/4/2007 của Bộ Chính trị; có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát các đảng bộ trực thuộc chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, cán bộ; xây dựng đảng bộ, tổ chức chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; phát triển doanh nghiệp, đơn vị vững mạnh, hiệu quả. Hiện nay, Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương có 38 đảng bộ trực thuộc (gồm 32 đảng ủy cấp trên cơ sở, 06 đảng ủy cơ sở, 02 đảng ủy cơ quan). Toàn Đảng bộ có 1.463 tổ chức cơ sở đảng (988 đảng bộ cơ sở; 475 chi bộ cơ sở; 5.380 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở; 224 đảng ủy bộ phận, chi bộ trực thuộc đảng bộ cấp trên cơ sở; và 129.419 đảng viên (trong đó có 41.458 đảng viên mới tiếp nhận theo Quyết định số 60-QĐ/TW của Ban Bí thư).

Hệ thống tổ chức đảng trong doanh nghiệp, gồm có: Đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối (gọi chung là đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước), có chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 13/02/2017 đến nay là Quy định số 87-QĐ/TW, ngày 28/10/2022 của Ban Bí thư.

Tổ chức đảng cơ sở (đảng ủy cơ sở và chi bộ cơ sở) trong doanh nghiệp nhà nước (thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 48-QĐ/TW, ngày 20/12/2021 của Ban Bí thư), trong doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 50% vốn điều lệ trở xuống (thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 20/12/2021 của Ban Bí thư), trong doanh nghiệp tư nhân (thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 170-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 của Ban Bí thư) và trong doanh nghiệp có vốn nước ngoài (thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 171-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 của Ban Bí thư). 

Các đảng ủy bộ phận và chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy bộ phận (gọi chung là tổ chức đảng dưới cơ sở).

Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương có đặc điểm là không có chính quyền cùng cấp, không giao chỉ tiêu sản xuất kinh doanh và quyết định nhân sự cấp ủy nhưng không quyết định về nhân sự quản lý đối với các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối; nhiều đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Khối được tổ chức và hoạt động theo mô hình đảng bộ chưa toàn doanh nghiệp (đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn, tổng công ty); một số tổ chức đảng trong doanh nghiệp có số lượng đảng viên đông, hoạt động phân tán trên cả nước và nước ngoài, làm việc theo ca, kíp và lưu động; một số tổ chức đảng (cơ sở và dưới cơ sở) trong doanh nghiệp đã được các tập đoàn, tổng công ty trong Khối thoái hết vốn nhưng chưa chuyển về trực thuộc cấp ủy địa phương; nhiều đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc trong doanh nghiệp là công ty con cấp I, cấp II, cấp III... của tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối và trong đơn vị sự nghiệp (trường, bệnh viện). Những đặc điểm nêu trên dẫn đến việc thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ (sau đây gọi tắt là TTDC) trong Đảng của các tổ chức đảng thuộc Đảng bộ Khối có điểm khác so với các loại hình tổ chức đảng khác.

Từ thực tiễn thời gian qua ở Đảng ủy Khối cho thấy, các tổ chức đảng cơ bản quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc TTDC từ việc quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức, đến xây dựng các quy chế, quy định và thực hiện nhiệm vụ, công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện nguyên tắc TTDC. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nguyên tắc TTDC của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong doanh nghiệp ở Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương còn có tồn tại, hạn chế. Tính riêng từ nhiệm kỳ 2015 - 2020 đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ Khối đã thi hành kỷ luật 18 cấp ủy, tổ chức đảng, 20 đảng viên là người đứng đầu cấp ủy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp do vi phạm quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc TTDC; việc cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương còn chậm, tổ chức thực hiện một số nội dung vẫn còn hạn chế; thiếu quyết liệt, đồng bộ trong xây dựng và triển khai chương trình hành động, kế hoạch cụ thể hóa hoặc ban hành chưa sát tình hình thực tế, thiếu tính khả thi. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa cao; chậm xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc có tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc TTDC, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo. Ở một vài nơi, sinh hoạt đảng không đảm bảo quy định, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Tính nêu gương của một số ít cán bộ lãnh đạo cấp ủy, lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, đơn vị chưa rõ nét.

Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm nêu trên đó là: Về khách quan, điều lệ tổ chức và hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối quy định về tổ chức đảng còn mờ nhạt. Chưa có quy chế làm việc mẫu của các cấp ủy, tổ chức đảng và chi bộ trong doanh nghiệp; quy chế làm việc chưa xác định rõ trách nhiệm cụ thể của tập thể lãnh đạo (cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy), của cá nhân phụ trách và mối quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân có liên quan. Chưa có quy định về chức năng, nhiệm vụ của đảng ủy bộ phận, chi bộ trực thuộc trong các công ty cấp I, cấp II, cấp III... thuộc tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối. Chưa có sự đồng bộ, thống nhất trong quy định về thể loại, thẩm quyền và quy trình xây dựng, ban hành văn bản của các cấp ủy, tổ chức đảng trong doanh nghiệp, nhất là quy trình, thủ tục trong từng hình thức họp bàn, thảo luận và biểu quyết quyết định các nội dung. 

Về chủ quan, còn có cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, doanh nghiệp thiếu gương mẫu, chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nguyên tắc TTDC; chưa thật sự tôn trọng, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc; có biểu hiện gia trưởng, ít lắng nghe, thiếu tôn trọng và phát huy quyền của cấp ủy viên, đảng viên. Tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm; còn tình trạng dân chủ hình thức, thống nhất một chiều, thiếu sự thảo luận, tranh luận thấu đáo; chất lượng tham gia, đóng góp ý kiến của cấp ủy viên, của đảng viên vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế, nhất là từ cấp cơ sở trở xuống. 

Còn có đảng viên (trong đó có cấp ủy viên, ủy viên UBKT các cấp) chưa hiểu rõ, đầy đủ về bản chất, nội dung và tầm quan trọng của nguyên tắc TTDC, chưa thực sự tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc.

Đảng viên, cấp ủy viên các cấp trong các tổ chức đảng ở doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước không chi phối có đặc thù là đảng viên, cấp ủy viên hoạt động phân tán, thường xuyên thay đổi địa bàn, làm việc theo ca kíp ..., do đó việc duy trì sinh hoạt đảng của chi bộ, của cấp ủy gặp khó khăn, nhất là cấp cơ sở và dưới cơ sở (điều này có ảnh hưởng đến việc thảo luận, ra quyết định trong sinh hoạt đảng), đến nay cũng chưa có hướng dẫn thống nhất về quy trình, thủ tục tổ chức sinh hoạt đảng, việc ghi biên bản và thiết lập hồ sơ sinh hoạt đảng ở các loại hình tổ chức đảng và cơ quan lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, quy định của Đảng về thể loại, thẩm quyền ban hành văn bản của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chưa có sự đồng bộ, thống nhất; chưa có quy định, hướng dẫn về quy trình, thủ tục ban hành và các văn bản của chi bộ, của các cơ quan lãnh đạo đảng cấp cơ sở và cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước không chi phối (nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và dân chủ trong ban hành các văn bản).

Chưa có hướng dẫn về mẫu quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp nên nhiều quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra có tình trạng chưa xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy, của chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, thành viên ủy ban; còn có tình trạng cấp dưới sao chép quy chế làm việc của cấp trên, nhất là cấp cơ sở và dưới cơ sở, nên có việc thực hiện vượt quá thẩm quyền dẫn đến sai phạm; quy định về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy với ban lãnh đạo, điều hành của doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị có trường hợp chưa thể hiện rõ vai trò của ban lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, nhưng cũng có trường hợp cấp ủy làm thay vai trò của ban lãnh đạo, điều hành; hoặc trong quy chế làm việc của UBKT có tình trạng cấp ủy khoán gọn cho ủy ban thực hiện mọi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhưng cũng có tình trạng quy định ủy ban phải xin ý cấp ủy trước khi làm bất cứ việc gì.

Việc xây dựng quy hoạch, chuẩn bị nhân sự cho UBKT các cấp vẫn còn nhiều bất cập về quy trình, thủ tục, vừa kéo dài, đôi khi còn chặt chẽ hơn so với công tác nhân sự của cấp ủy, trong khi đội ngũ cán bộ tham gia UBKT các cấp của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước không chi phối thường xuyên biến động (do đặc thù sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp), đã gây nhiều khó khăn trong công tác cán bộ của UBKT các cấp trong Đảng bộ Khối.

Việc kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên về thực hiện nguyên tắc TTDC, quy chế làm việc là nội dung khá rộng và bao trùm, nên còn có tình trạng một hành vi của tổ chức đảng, đảng viên vừa vi phạm nguyên tắc TTDC, quy chế làm việc, lại vừa vi phạm ở quy định khác (nhất là trong quy định về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm).

Trên cơ sở đánh giá nêu trên, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi nguyên tắc TTDC của Đảng trong Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương, như sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên các cấp và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về nguyên tắc TTDC trong Đảng. Quan tâm thực hiện thường xuyên, xuyên suốt việc bồi dưỡng cho quần chúng ưu tú, đảng viên mới kết nạp cho đến các đồng chí được giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm lần đầu vào các chức vụ trong Đảng. 

Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục về công tác xây dựng Đảng, trong đó có nguyên tắc TTDC trong Đảng gắn với thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và các Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương, số 01-KL/TW của Bộ Chính trị, làm sâu sắc thêm về nhận thức, nâng cao vai trò trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị về thực hiện nguyên tắc TTDC và chấp hành quy chế làm việc.

Hai là, cần xây dựng, ban hành một cách đồng bộ các văn bản quy định, hướng dẫn để thực hiện thống nhất trong Đảng từ cấp chi bộ đến Trung ương về chế độ sinh hoạt đảng, quy trình, thủ tục tổ chức sinh hoạt đảng; về quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành và thể loại, thẩm quyền ban hành văn bản của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, đảm bảo vừa mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong việc ra quyết định, nhưng cũng đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng khi phân công, phân nhiệm trong tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách để tổ chức thực hiện quyết định đó.

Bên canh đó, cần có hướng dẫn về mẫu quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cho phù hợp; quy định về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy với ban lãnh đạo, điều hành của doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị bảo đảm đúng vai trò, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy; quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên vừa đảm bảo vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp, vừa phát huy được tính chủ động của cơ quan tham mưu và người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp việc.

Ba là, có quy định, hướng dẫn quy trình, thủ tục quy hoạch, thực hiện công tác nhân sự tham gia UBKT các cấp, trong đó có Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đảm bảo nhanh gọn, giúp lựa chọn, bố trí, phân công được cán bộ có bản lĩnh, liêm chính, có năng lực, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn giỏi làm công tác kiểm tra Đảng.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng. Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị và tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống.

Năm là, đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt của cấp ủy, tổ chức đảng, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong việc gương mẫu thực hiện nguyên tắc TTDC, đi đôi với giữ vững và chủ động, tích cực phòng, chống tình trạng xa rời nguyên tắc này.

Chi bộ Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối

.
.
.
.