Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương - năm 2022
Chú trọng đầu tư vào yếu tố con người, phát huy hiệu quả sức mạnh nguồn nhân lực tại Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam
I. Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực
Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện mới, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như bối cảnh kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế được thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, khẳng định con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện.
Đảng ta chủ trương: “coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đồng thời khẳng định: “mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”; thực hiện “phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”. Đảng khẳng định, nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mỗi người dân. Do vậy, phải “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam;… phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”.
Để thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao...”.
Các đồng chí lãnh đạo Tổng công ty tại Lễ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Đảng bộ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam. |
Hai là, quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đại hội XIII chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”. Đồng thời định hướng: “ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ba là, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, khoa học để con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”. Thực hiện “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”. Đồng thời, “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân”.
Chủ trương coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”.
Cùng với đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định vai trò của khoa học trong phát triển nguồn lực con người: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc”; thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”.
Như vậy, quan điểm Đại hội XIII của Đảng về con người và phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là hệ thống toàn diện và có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong bối cảnh mới của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đảng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người, nguồn nhân lực chất lượng cao một cách toàn diện cả thể lực, trí lực, tâm lực. Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo đó là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hóa và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Lớp đào tạo Quản trị nhân sự trong doanh nghiệp dành cho cán bộ nhân viên chuyên trách công tác nhân sự tại các đơn vị trong Tổng công ty. |
II. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Con người là nhân tố chính tạo ra lợi ích cho các doanh nghiệp: Sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực: vốn, cơ sở vật chất, tiến bộ khoa học kỹ thuật nguồn nhân lực, các yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại với nhau. Những yếu tố như: máy móc thiết bị, của cải vật chất, công nghệ kỹ thuật đều có thể mua được, học hỏi được, sao chép được, nhưng con người thì không thể. Vì vậy nhân tố chính tạo ra lợi ích của mỗi doanh nghiệp chính là con người- nguồn nhân lực.
Con người là nhân tố chiến lược trong sự phát triển dài lâu của doanh nghiệp: Ngày nay, với tác động của việc cạnh tranh toàn cầu, tiến bộ trong công nghệ thông tin và một loạt những thay đổi khác đang thúc đẩy các tổ chức không ngừng đổi mới, đưa ra những sáng kiến chiến lược, cách nhìn mới quan tâm đặc biệt về đầu tư và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của tổ chức để tạo ra những khác biệt cho doanh nghiệp mình. Đối với doanh nghiệp, khai thác tốt năng lực làm việc của mỗi người ngày càng được quan tâm và đề cao. Việc tập trung phát triển yếu tố con người chính là con đường dẫn tới những thành công vượt trội, trường tồn mà doanh nghiệp hướng tới.
Con người là nguồn lực vô tận: Thế giới ngày một thay đổi, doanh nghiệp càng phát triển đi lên và con người chính là nguồn lực vô tận. Trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, robot có phát triển đến đâu cũng không thể thống trị được tất cả mọi thứ. Bởi tất cả những thứ đó đều được tạo ra từ trí tuệ con người và nằm dưới sự điều khiển của con người.
III. Chú trọng đầu tư vào yếu tố con người, phát huy hiệu quả sức mạnh nguồn nhân lực tại Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam.
Được thành lập ngày 05/04/1985, từ một Xí nghiệp liên hiệp có 4 nhà máy sản xuất thuốc lá điếu và một số xí nghiệp sản xuất nguyên liệu thuốc lá, hiện nay, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đã phát triển hoàn chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc lá khép kín từ sản xuất nguyên phụ liệu đến thuốc lá điếu, xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ thuốc lá và mở rộng sang lĩnh vực sản xuất thực phẩm bánh kẹo, đồ uống… Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và dần lớn mạnh trong gian khó, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đã trở thành một trong những Tổng công ty lớn của Nhà nước, giữ vị trí số một trong ngành thuốc lá Việt Nam, đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước và nền kinh tế quốc dân.
Trải qua gần 4 thập kỷ, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đã có những bước phát triển lớn mạnh vượt bậc. Sự chiếm lĩnh thị trường nội tiêu cùng với tốc độ tăng trưởng cao của kim ngạch xuất khẩu đang tạo ra những động lực lớn cho sự phát triển rất có ý nghĩa về năng lực cạnh tranh của Tổng công ty, qua đó thể hiện vị trí hàng đầu, là mũi nhọn chiến lược phát triển toàn ngành, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô của Chính phủ.
Giá trị cốt lõi của Vinataba: “Đoàn kết - đổi mới - sẵn sàng - hành động - gia tăng - hiệu quả”. Đảng ủy, Ban lãnh đạo Tổng công ty luôn xác định con người là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển, với tầm nhìn của Tổng công ty “Tổ chức kinh tế mạnh, giữ vị trí hàng đầu trong chuỗi sản xuất kinh doanh thuốc lá tại Việt Nam và xuất khẩu, đóng góp ngày càng cao cho sự phát triển kinh tế của đất nước”.
Trong suốt gần 4 thập kỷ qua, Tổng công ty đã đặc biệt chú trọng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực và xác định đây là nhân tố nền tảng, then chốt, giúp tạo ra sự khác biệt, mang lại lợi thế và năng lực cạnh tranh, quyết định sự tồn tại và phát triển nhanh, bền vững của Tổng công ty.
Tư duy xuyên suốt đó thành công ở chỗ Ban lãnh đạo Tổng công ty đã có những chủ trương chiến lược, giải pháp đúng đắn và bước đi đột phá để xây dựng nguồn nhân lực phù hợp cho từng giai đoạn, từng ngành nghề lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh (SXKD).
Theo đó, việc xây dựng nguồn nhân lực luôn được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Đảng uỷ, Ban Tổng Giám đốc Tổng công ty và cấp uỷ các cấp. Đảng uỷ Tổng công ty đã ra Nghị quyết chuyên đề, các cơ quan, đơn vị thành viên đã xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể để thực hiện. Cùng với thường xuyên xây dựng, kiện toàn mô hình tổ chức, Tổng công ty đã thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách hấp dẫn để thu hút, giữ gìn, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng các hình thức phù hợp.
Biểu dương 74 lao động - những tấm gương nhiệt huyết, gương mẫu đi đầu trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động phong trào CNVCLĐ trong Vinataba. |
Tổng công ty đã triển khai xây dựng và áp dụng các bộ quy trình, quy chế trong tuyển chọn, đánh giá chất lượng lao động, mô tả chức năng, công việc cho từng vị trí; chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành, cơ sở đào tạo để đào tạo nguồn nhân lực; trong đó, đặc biệt quan tâm thu hút đội ngũ lao động có chất lượng cao, các chuyên gia đầu ngành. Công tác quy hoạch, tuyển dụng của Tổng công ty từng bước được đổi mới; đã mạnh dạn áp dụng giải pháp thi tuyển vào các vị trí chức danh, làm cơ sở để tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên (CBNV) được đẩy mạnh ở các cấp, bằng nhiều hình thức, cả đào tạo ở trong nước và nước ngoài. Tổng công ty có chính sách hỗ trợ về tài chính để khuyến khích, động viên CB,NV tự học nâng cao trình độ, tay nghề; hằng năm, tạo nguồn ngân sách cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực với kinh phí cho các lớp đào tạo hơn 2 tỷ đồng. Thêm vào đó, Tổng công ty đã hình thành Trung tâm đào tạo Vinataba để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho Tổng công ty. Trung bình mỗi năm, Tổng công ty đã đào tạo và gửi đi đào tạo gần 1000 cán bộ nhân viên trong toàn Tổng công ty; mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho hàng ngàn lượt CBNV.
Bên cạnh đó, Tổng công ty luôn quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để CBNV phát huy tài năng.
Các chính sách tiền lương, tiền thưởng, thường xuyên được đổi mới, phù hợp với thực tiễn; trong đó có chính sách ưu đãi đặc biệt cho lao động có chất lượng cao và các chuyên gia giỏi... Là doanh nghiệp nhà nước, với cơ chế lương đặc thù của khối doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên Tổng công ty luôn xác định thu nhập của CBNV chính là động lực để người lao động làm tốt và cống hiến cho tổ chức, vì vậy trên cơ sở tiết kiệm tối đa các chi phí thường xuyên của doanh nghiệp, đẩy mạnh cơ giới hóa tự động hóa nâng cao năng suất lao động, từ đó từng bước tối đa hóa quỹ lương theo quy định. Trong năm 2021 vừa qua, mặc dù tình hình kinh tế, chính trị thế giới diễn biến phức tạp, đại dịch covid vô cùng phức tạp, ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe toàn cộng đồng, tuy nhiên đứng trước những khó khăn đó, với sự lãnh đạo sâu sát, quyết liệt, nhận diện rõ lợi thế và những khó khăn kịp thời nên đã có những quyết sách đúng, kịp thời, khẩn trương giúp Tổng công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, và cốt lõi của việc hoàn thành mục tiêu kinh doanh luôn được Lãnh đạo hướng tới là mục tiêu đảm bảo đời sống của cán bộ nhân viên được nâng lên song song mục tiêu đem lại giá trị lợi nhuận, ngân sách cho nhà nước. Thu nhập bình quân toàn Tổng công ty trong năm 2021 đạt 18,69 triệu đồng/người/tháng, tăng 7% so với kế hoạch và tăng 4% so với năm 2020, tăng 335% so với năm 2011(sau 10 năm). Qua đó, tạo động lực thu hút và thúc đẩy CBNV nâng cao trình độ, tay nghề, không ngừng sáng tạo để xây dựng Tổng công ty.
Chính sách phúc lợi dành cho người lao động luôn được quan tâm, đổi mới, cập nhật, chế độ phúc lợi là những lợi ích vật chất, tinh thần mà Tổng công ty dành cho người lao động (ngoài tiền công, tiền lương), được phân bổ theo quy chế, quy định của từng đơn vị trong Tổng công ty nhằm chia sẻ, hỗ trợ, động viên, khuyến khích người lao động gắn bó với doanh nghiệp. Những phúc lợi cụ thể của mỗi đơn vị được ghi nhận trong thỏa ước lao động tập thể, do đại diện tập thể người lao động trong đợi vị ký kết với người sử dụng lao động và hai bên hướng tới mục tiêu chung là đảm bảo lợi ích người lao động tốt hơn để cống hiến vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty tốt hơn. Tổng công ty luôn coi việc trích lập quỹ phúc lợi doanh nghiệp cũng là một sự đầu tư, đầu tư vào con người, đầu tư để tái sản xuất mở rộng sức lao động. Về thực chất, nguồn để trích lập quỹ phúc lợi là một phần lợi nhuận do người lao động làm ra được đầu tư trở lại cho người lao động.
Đối với Tổng công ty bên cạnh các khoản trích nộp bắt buộc theo quy định pháp luật đối với người lao động như trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, luôn chú trọng gia tăng các loại phúc lợi tự nguyện trên cơ sở quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn của nhà nước, qua đó, tạo thêm động lực cho người lao động. Các chương trình phúc lợi của Tổng công ty hướng tới tạo môi trường làm việc tốt, an toàn, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chương trình chăm sóc sức khỏe của doanh nghiệp cho người lao động, gia đình; cải thiện các bữa ăn ca, nước uống tại nơi làm việc; tạo điều kiện cho người lao động tham gia các hoạt động cộng đồng, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao... Những chính sách phúc lợi tại Tổng công ty cũng là một trong những nét đặc trưng, khác biệt và có sức hút cũng như giữ chân nhân sự so với nhiều doanh nghiệp khác như chế độ bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
Tổng công ty đã xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định nhờ có chính sách phúc lợi rõ ràng, minh bạch, quan tâm hướng tới cải thiện đời sống người lao động, từ đó tạo cho người lao động có được sự bình an, yên tâm cống hiến, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Tổng công ty.
Trong thời gian qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các cam kết rất cao, trong đó có các cam kết về lao động, việc làm, quyền của người lao động, điều kiện lao động, tôn trọng các quyền cơ bản của người lao động; lương tối thiểu; giới hạn thời gian làm việc tối đa; an toàn và sức khỏe lao động; cân bằng cuộc sống và công việc… Các cam kết đó đã từng bước được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam, trở thành khung pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện. Nhận thức rõ, phát triển phúc lợi doanh nghiệp ngày càng phải đáp ứng các yêu cầu cao hơn và đây cũng là một điều kiện tiên quyết gắn liền với chiến lược phát triển xuất khẩu của Tổng công ty khi tham gia vào quá trình hợp tác và cạnh tranh quốc tế.
Việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp được quan tâm chú trọng, đẩy mạnh thực hiện rõ nét và hiệu quả thông qua triển khai các hoạt động mang màu sắc văn hóa Vinataba. Sổ tay văn hóa Vinataba được xây dựng và ban hành với những giá trị chuẩn mực về đạo đức, văn hóa Vinataba được xác định để cán bộ, đảng viên và người lao động xây dựng và hướng tới hoàn thiện bản thân.
Tổng công ty đã chú trọng xây dựng môi trường làm việc thân thiện, cởi mở, coi trọng chữ tín, chữ tình trong lãnh đạo, điều hành, thực thi mọi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Chính môi trường đó đã tạo ra một văn hóa Vinataba đặc biệt khác biệt với nhiều doanh nghiệp khác và đó cũng chính là đã xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp thành công. Chính văn hóa này đã gắn kết cán bộ nhân viên và tạo ra một ngôi nhà thứ 2 thật sự thân thương, muốn gắn bó lâu dài đối với mỗi người. Ở đó, người lao động được là chính mình, được khuyến khích phát huy những năng lực, thế mạnh của bản thân, được ghi nhận thành quả một cách công bằng, khách quan và nhận về giá trị vật chất và tinh thần tương xứng, chính vì vậy chỉ số gắn bó của Cán bộ nhân viên với Tổng công ty rất cao. Trong năm 2015, kỷ niệm 30 năm hình thành và phát triển Tổng công ty, có gần 1000 cán bộ nhân viên được trao kỷ niệm chương 30 năm gắn bó với ngôi nhà chung Vinataba (Chiếm tỷ lệ 8% trong tổng số CBNV).
Nhờ có định hướng chiến lược đúng đắn, tư duy đột phá và bước đi phù hợp, nên những năm qua, nguồn nhân lực của Tổng công ty đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trình độ cán bộ quản lý: Trên đại học chiếm 18,92%, đại học chiếm 78,92%, Cao đẳng chiếm 0,74% trên tổng số lao động quản lý: 539 người. Trình độ lao động chuyên môn nghiệp vụ: Trên đại học chiếm 4,89%, Đại học chiếm 72,48%, Cao đẳng chiếm 5,73%, Trung cấp chiếm 11,16% trên tổng số lao động chuyên môn nghiệp vụ: 1.308 người. Trình độ công nhân kỹ thuật: Đại học chiếm 10,94%, Cao đẳng chiếm 9,32%, Trung cấp chiếm 22,39%, công nhân kỹ thuật, sơ cấp chiếm 49,99%, chưa qua đào tạo chiếm 5,4% trên tổng số lao động ở vị trí công việc là công nhân kỹ thuật: 3.573 người. Đây là nguồn lực quý giá, quyết định sự phát triển hiện tại và lâu dài của Tổng công ty.
Nguồn nhân lực đó đã và đang được phát huy, góp phần quan trọng giúp Tổng công ty có bước phát triển nhảy vọt, mang lại hiệu quả, từ một xí nghiệp liên hiệp, nay Vinataba đã trở thành một Tổng công ty đặc biệt. Tổng công ty đã đóng vai trò là doanh nghiệp nòng cốt trong ngành thuốc lá trong việc tổ chức sắp xếp ngành: đã tiếp nhận nhiều Xí nghiệp thuốc lá địa phương, thực hiện đổi mới doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả. Tổng công ty là nòng cốt của Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam trong xây dựng chiến lược phát triển, hệ thống chính sách quản lý ngành, tham gia tư vấn chính sách, hoàn thiện văn bản pháp quy, quy định quản lý ngành thuốc lá; tham gia tích cực vào công tác chống buôn lậu, hàng giả.
Giai đoạn 2010-2020, Tổng công ty luôn giữ vững vị trí dẫn đầu ngành thuốc lá Việt Nam. Trong bối cảnh sản lượng tiêu thụ nội địa toàn ngành giảm, sản lượng của Tổng công ty vẫn tăng trưởng đều, bình quân từ 2 đến 3 điểm %/năm, thị phần nội địa của Tổng công ty chiếm trên 65% toàn ngành và dẫn đầu thị trường ở phân khúc sản phẩm trung cấp. Thị phần xuất khẩu chiếm xấp xỉ 75%, các sản phẩm thuốc lá sản xuất tại Việt Nam, có mặt tại nhiều quốc gia khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Đặc biệt, năm 2019, Tổng công ty đạt đỉnh cao nhất về nộp ngân sách trong 36 năm hình thành và phát triển, vượt 11.300 tỷ đồng (Nộp ngân sách năm 1985 chỉ đạt chưa đến 1 tỷ đồng), lợi nhuận thực hiện tăng gần 6% so với kế hoạch, đạt gần 1.600 tỷ đồng và đời sống người lao động tiếp tục được nâng cao với thu nhập bình quân tăng trên 8%.
Bên cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính) phủ, từ năm 2009 đến nay, Tổng công ty đã và đang triển khai Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 02 huyện nghèo: Hà Quảng – tỉnh Cao Bằng và Bác Ái – tỉnh Ninh Thuận với kết quả được Nhà nước, các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương đánh giá cao, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, nông thôn: giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, trường học, trạm y tế góp phần làm thay đổi đời sống và bộ mặt nông thôn mới ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn.
Thời gian tới, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới sẽ diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng; cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, nhất là trong lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao vì thế sẽ càng có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với mọi doanh nghiệp... Trước bối cảnh đó, Tổng công ty xác định sứ mệnh “Đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách quan của xã hội, nắm bắt cơ hội dẫn dắt ngành thuốc lá Việt Nam phát triển, đảm bảo yêu cầu hội nhập, thân thiện môi trường và trách nhiệm xã hội” “Xây dựng Vinataba trở thành một tổ chức có môi trường hội nhập để thu hút, xuất hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài.”
Để đạt được mục tiêu trên, trước hết, cấp uỷ, chỉ huy các cấp và mọi cán bộ, nhân viên Tổng công ty cần tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo về phát triển nguồn nhân lực của Đảng uỷ Tổng công ty, gắn kết chặt chẽ chiến lược phát triển nguồn nhân lực với chiến lược SXKD; phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống; nhất là cấp uỷ các cấp và các cơ quan chức năng. Các cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp trong kế hoạch, chương trình hành động phát triển nguồn nhân lực; chú trọng nghiên cứu kỹ đặc điểm, nhu cầu từng loại đối tượng lao động, dự báo xu hướng phát triển để tham mưu cho Đảng uỷ, Lãnh đạo Tổng công ty về xây nguồn nhân lực, phù hợp với mô hình tổ chức của Tổng công ty theo quy hoạch nguồn nhân lực.
Hai là, tiếp tục đổi mới quy trình, nâng cao hơn nữa chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác tuyển dụng lao động. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, xây dựng và đưa vào áp dụng bộ quy trình chuẩn trong tuyển chọn cho từng đối tượng cụ thể. Tiếp tục nâng tầm các chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, điều hành giỏi và chuyên gia đầu ngành. Trong tuyển dụng, bám sát nhiệm vụ SXKD, định biên, thực hiện đúng quy trình và các tiêu chí đã ban hành, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; gắn phát triển số lượng với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (cả trình độ học vấn và kinh nghiệm nghề nghiệp); trong đó, đặt chất lượng lên hàng đầu; gắn yêu cầu về năng lực chuyên môn với bản lĩnh chính trị.
Ba là, đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện nguồn nhân lực. Tổ chức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của Tổng công ty theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp hoá đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ SXKD. Thực hiện đa dạng hoá và kết hợp chặt chẽ các loại hình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở tất cả các cấp; khuyến khích CBNV nêu cao tinh thần tự học tập thông qua thực tiễn công tác; xây dựng Trung tâm đào tạo Vinataba thành một đơn vị đào tạo nội bộ chuyên nghiệp; đồng thời, tăng cường liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo, dạy nghề ở trong và ngoài nước. Tổng công ty tiếp tục tạo nguồn ngân sách cho công tác đào tạo nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí này.
Bốn là, chú trọng thực hiện các giải pháp về quy hoạch, sắp xếp, sử dụng, đổi mới công tác quản lý nhân sự và các chính sách đãi ngộ (tiền lương, thưởng, phúc lợi), để thu hút, giữ gìn, phát triển nguồn nhân lực. Chủ động phát hiện, đào tạo có định hướng đối với cán bộ trẻ có triển vọng và mạnh dạn bổ nhiệm, trao quyền trên các cương vị lãnh đạo, quản lý. Trong bố trí sử dụng, quán triệt và thực hiện đúng người đúng việc; duy trì thường xuyên việc luân chuyển, thi tuyển, để tạo động lực và môi trường cạnh tranh lành mạnh cho mọi CBNV phấn đấu vươn lên; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, quản lý con người với quản lý công việc; bổ sung, hoàn thiện tiêu chí chuẩn cho từng vị trí chức danh làm cơ sở để phân loại, phân lớp CBNV hằng năm. Bên cạnh đó, Tổng công ty tiếp tục nghiên cứu đổi mới chính sách tiền lương, tiền thưởng phù hợp với sự phát triển; thực hiện trả lương cho CB,NV dựa trên hiệu quả công việc và theo thị trường lao động; có chính sách ưu tiên tạo môi trường làm việc khác biệt (có chất lượng cao), mức lương khác biệt cho đội ngũ chuyên gia và các tài năng.
Năm là, phát huy sức mạnh của tình đoàn kết, gắn kết đội ngũ trong Tổng công ty.
Để Tổng công ty tiếp tục là môi trường lý tưởng mà ở đó mọi người phát triển một cách tự nhiên, luôn tràn đầy năng lượng, niềm tin gắn kết và thúc đẩy lợi ích của Tổng công ty cũng như của cá nhân. Phát huy được sức mạnh tập thể, từ sức mạnh và năng lực tốt của từng cá nhân, nâng cao được năng suất lao động, đặc biệt là sức mạnh trí tuệ tạo ra sức cạnh tranh đặc biệt và độc đáo.
Sáu là, ứng dụng nghệ thuật quản trị nhân sự hướng đến thúc đẩy việc truyền cảm hứng làm việc tích cực, khuyến khích mỗi cá nhân trong Tổng công ty phát huy nguồn năng lượng, sức mạnh, tiềm năng vốn có để đạt được những thành tựu vượt bậc, góp phần phát triển Tổng công ty ngày một lớn mạnh.
Bảy là, ứng dụng công nghệ trong quản lý nhân sự. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản trị nhân sự nhằm nâng cao hiệu quả, công khai, minh bạch, tối ưu hóa lợi ích, tiết kiệm chi phí… đồng giúp nâng cao trải nghiệm của người lao động tại nơi làm việc. Tiếp tục phát huy mô hình làm việc kết nối nhau bằng công nghệ thông tin để thích ứng nhanh với sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày./.
Bùi Thị Hải, Chi bộ 3, Đảng bộ Cơ quan đại diện
Đảng bộ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam