.
.

Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2022:

TĂNG CƯỜNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO LÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHỤC HỒI KINH TẾ SAU ĐẠI DỊCH COVID - 19

Thứ Sáu, 11/11/2022|17:08

Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong những nội dung được nhấn mạnh trong các đột phá chiến lược thời gian tới, được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến 2030. Đổi mới sáng tạo đã và đang có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là sau đại dịch Covid – 19. Theo đó, Việt Nam là một trong 19 nền kinh tế đang vượt kỳ vọng về đổi mới sáng tạo trong tương quan với trình độ phát triển (theo Báo cáo GII 2021); Đổi mới công nghệ đã đóng góp hơn 50% vào tăng trưởng kinh tế tổng thể của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020. Năm 2021, Việt Nam đứng thứ 3 ASEAN và xếp hạng 14/50 khu vực Châu Á về quy mô kinh tế số. Tuy nhiên, để đổi mới sáng tạo thực sự trở thành giải pháp thúc đẩy nền kinh tế, cần có sự thống nhất về triển khai, sự sẵn sàng về nguồn lực và hoàn thiện về cơ chế chính sách.

Đại diện lãnh đạo Vietcombank nhận biểu trưng “Thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2022”
Đại diện lãnh đạo Vietcombank nhận biểu trưng “Thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2022”.

Quan điểm của Đảng về đổi mới sáng tạo qua các kỳ đại hội 

Đổi mới sáng tạo được hiểu là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa. 

Đại hội VI (1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội VI khẳng định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Đại hội VI cũng đã nêu lên quan điểm cần xúc tiến và hoàn thành việc xác định “chiến lược phát triển khoa học và kỹ thuật, làm luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội...  phải lựa chọn và tổ chức áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ thuật thích hợp”

Sau hơn 45 năm giải phòng đất nước, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sáng tạo nhằm phát triển kinh tế bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Cụm từ “đổi mới sáng tạo” đã trở thành thuật ngữ riêng trong Văn kiện của Đại hội XIII của Đảng và thể hiện qua mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến định hướng phát triển của đất nước… Theo đó, “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao”; “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế”

Đổi mới, sáng tạo tiếp tục được đề cập tại “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030” với chủ đề là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Các quan điểm này đã thể hiện sự kế thừa tư duy đổi mới của Đảng qua các kỳ đại hội và tầm nhìn của Đảng trước yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới, nhất là sau đại dịch Covid-19.

Tổng quan tình hình phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021

Triển khai Nghị quyết 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Quốc hội ban hành, kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực theo hướng ổn định và bền vững hơn trong giai đoạn 2016 - 2021, cụ thể như sau:

Về tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) và lạm phát

Mặc dù tốc độ tăng GDP năm 2016 tăng 6,21%, thấp hơn tốc độ tăng của năm 2015 (tăng 6,68%) do ảnh hưởng của tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng trong ba năm tiếp theo, nền kinh tế đã có sự bứt phá, tốc độ tăng GDP năm sau cao hơn năm trước và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra trong Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hằng năm , trong đó tốc độ tăng GDP năm 2017 đạt 6,81%; năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008; năm 2019 tăng 7,02%. Bình quân giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP đạt 6,78%, cao hơn 0,87 điểm phần trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015, đồng thời đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%/năm của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Riêng năm 2020, 2021, tăng trưởng GDP lần lượt đạt 2,91% và 2,58%, tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2022 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới. 

Về lạm phát, mặc dù năm 2020 nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, nhưng trong giai đoạn 2016-2020, kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn duy trì ổn định vững chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Giá cả các mặt hàng diễn biến tương đối ổn định. CPI bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 4%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011 - 2015 (7,65%), trong phạm vi mục tiêu đề ra (dưới 4%). Lạm phát cơ bản bình quân được kiểm soát tốt qua các năm, giữ mức tương đối ổn định, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 1,64%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011 - 2015 là 5,15%. Đến năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng CPI bình quân năm 2021 của Việt Nam chỉ tăng 1,84% so với năm trước, thấp nhất trong 6 năm qua, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra, tiếp tục được đánh giá là năm kiểm soát lạm phát thành công của Chính phủ Việt Nam. Số liệu về GDP và lạm phát được miêu tả cụ thể ở biểu đồ 1.

Biểu đồ 1. Chỉ số GDP và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2021 (Nguồn: Tổng cục thống kê).
Biểu đồ 1. Chỉ số GDP và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021 (Nguồn: Tổng cục thống kê).

Về năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR)

TFP (Total factor Productivity) là một trong những chỉ tiêu phản ánh chính xác và khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn và lao động, là căn cứ quan trọng để phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế đánh giá tiến bộ khoa học công nghệ của mỗi ngành, mỗi địa phương hay một quốc gia. Tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 xác định mục tiêu đến năm 2025: “Nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 45% GDP”

Trong giai đoạn 2016-2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,72%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011-2015. Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng TFP dương và thuộc nhóm các nước tăng TFP cao nhất của các nước thành viên Tổ chức Năng suất Châu Á (Asian Productivity Organization - APO). Năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid – 19, TFP đã giảm nhưng có xu hướng phục hồ trở lại. Mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng của nền kinh tế tăng lên thể hiện tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu.

Bên cạnh đó, hệ số ICOR (chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư thực hiện tăng thêm để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước) giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015. Điều này thể hiện công tác đầu tư đã có xu hướng hiệu quả hơn qua thời gian. Giá trị hệ số ICOR và TFP qua các năm được thể hiện trong biểu đồ 2.

Biểu 2. Hệ số ICOR và đóng góp TFP trong tăng trưởng (Nguồn: Tổng cục thống kê).
Biểu 2. Hệ số ICOR và đóng góp TFP trong tăng trưởng (Nguồn: Tổng cục thống kê).

Cơ cấu lại nền kinh tế đã có bước chuyển biến tích cực trong các ngành, lĩnh vực

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và ngành dịch vụ. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP đã giảm từ 16,32% năm 2016 xuống 15,34% năm 2017, năm 2019 còn 13,96% và năm 2021 là 12,36; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,72% năm 2016 lên 33,4% năm 2017; 34,49% năm 2019 và năm 2021 là 37,86%; khu vực dịch vụ tăng từ 40,92% năm 2016 lên 41,26% năm 2017, 41,64% năm 2019 và năm 2021 là 40,95 %.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế những năm gần đây không chỉ diễn ra giữa các ngành kinh tế mà còn có xu hướng chuyển đổi tích cực trong nội bộ ngành. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ loại cây có giá trị thấp sang loại cây có giá trị cao hoặc nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả rõ rệt. Lĩnh vực công nghiệp chuyển dịch theo hướng phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao và giá trị xuất khẩu lớn; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng dần qua các năm. Bình quân giai đoạn 2016-2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,24%/năm, chiếm tỷ trọng 16,7% GDP năm 2020 và tăng 2,43 điểm phần trăm so với năm 2016; ngành khai khoáng giảm 3,75%/năm, chiếm 5,55% GDP và giảm 2,57 điểm phần trăm. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.

Khu vực dịch vụ được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm có năng lực cạnh tranh. Trong đó, một số ngành dịch vụ được hiện đại hóa, hình thành các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao như dịch vụ y tế, bảo hiểm.

Về an sinh xã hội

Giai đoạn 2016-2021, đời sống của dân cư tiếp tục được cải thiện. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,684 năm 2015 lên 0,689 năm 2016, 0,694 năm 2017, 0,704 năm 2019 và 0,703 năm 2021. Việt Nam đã tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu từ 117 trên 189 quốc gia vào năm 2019 lên 115 trên 191 quốc gia vào năm 2021. Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2019 ước tính đạt 4,3 triệu đồng (tăng gần 1,2 triệu đồng so với năm 2016), bình quân giai đoạn 2016-2019 tăng 8,5%/năm.

Từ năm 2016, Việt Nam bắt đầu công bố tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều với tỷ lệ 9,2%; năm 2017 giảm xuống còn 7,9%; năm 2018 giảm còn 6,8%; năm 2019 giảm còn 5,7%. Bình quân giai đoạn 2016-2019 giảm 1,2%/năm, đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược giảm nghèo quốc gia là giảm từ 1% đến 1,5%. Xu hướng giảm này ở cả thành thị, nông thôn và các vùng kinh tế là kết quả tích cực đối với công tác xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.

Vai trò của đổi mới sáng tạo vào thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021

Theo kết quả xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2021 được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Việt Nam đứng ở vị trí 44/131 quốc gia và nền kinh tế. Việt Nam là một trong 4 quốc gia (cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Philippines), có thu nhập trung bình được WIPO đánh giá là đang bắt kịp đà tăng chỉ số đổi mới sáng tạo của thế giới. Cụ thể, cả 4 nền kinh tế châu Á này đều tăng trung bình 22 bậc trên bảng xếp hạng GII trong thập kỷ qua, trong đó Việt Nam từ vị trí 76 năm 2012 vươn lên thứ hạng 44 vào năm nay. WIPO nhấn mạnh, 4 nền kinh tế này đang cho thấy tiềm năng làm thay đổi bức tranh đổi mới sáng tạo toàn cầu theo hướng tốt đẹp hơn. 

Ngoài ra, cũng theo Báo cáo GII 2021, Việt Nam là một trong 19 nền kinh tế đang vượt kỳ vọng về đổi mới sáng tạo trong tương quan với trình độ phát triển. Đáng chú ý, Việt Nam, cùng với Ấn Độ, Kenya, Cộng hòa Moldova, tiếp tục nắm giữ kỷ lục về phương diện này năm thứ 11 liên tiếp. Việt Nam cũng tiếp tục đạt mức điểm cao hơn mức trung bình của nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp trên tất cả các trụ cột đánh giá GII, thậm chí còn cao hơn mức trung bình của nhóm thu nhập trung bình cao ở 4 trụ cột: “Trình độ phát triển thị trường”, “Trình độ phát triển kinh doanh”, “Sản phẩm tri thức và công nghệ”, và “Sản phẩm sáng tạo”.

Rõ ràng, thể chế, năng lực về đổi mới sáng tạo ở Việt Nam đã được hình thành rõ nết hơn tại Việt Nam trong thời gian qua. Công tác đổi mới, sáng tạo đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 – 2021, cụ thể như sau:

Thúc đẩy kinh tế số

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, đổi mới công nghệ đã đóng góp hơn 50% vào tăng trưởng kinh tế tổng thể của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020. Năm 2021, Việt Nam đứng thứ 3 ASEAN và xếp hạng 14/50 khu vực Châu Á về quy mô kinh tế số. 

Biểu đồ 3 miêu tả tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam và Đông Nam Á qua các năm. Theo đó, kinh tế số Việt Nam tăng trưởng mạnh qua các năm, từ 3 tỷ USD năm 2015 lên 12 tỷ USD năm 2019 và 14 tỷ USD năm 2020. Đến năm 2021, giá trị kinh tế số ước đạt 21 tỷ USD năm 2021 (khoảng 5,8% GDP năm 2021), tăng 31% so với năm 2020. Trong đó, quy mô thương mại điện tử năm 2021 ước đạt 13 tỷ USD, tăng 53% so với năm 2020, trở thành kênh phân phối hàng hóa, dịch vụ quan trọng trong bối cảnh dịch bệnh. Thanh toán điện tử tăng nhanh với giá trị thanh toán qua kênh Internet, điện thoại di động và QR Code tăng tương ứng 29%, 88,3%, 129%, thuộc nhóm cao nhất thế giới; 16,4 triệu ví điện tử đang hoạt động, tăng 20,2% so với năm 2020. Việt Nam là quốc gia có tỷ trọng tổng giá trị hàng hóa kinh tế số lớn nhất trong khu vực, đạt 4% GDP; đứng thứ 2 là Singapore 3,2% GDP; Indonesia 2,9% GDP; Thái Lan và Malaysia 2,7% GDP; Philippines 1,6% GDP (năm 2020).

Biểu đồ 3. Tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam và Đông Nam Á (Nguồn: Google, Temasek, Bain - 2020).
Biểu đồ 3. Tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam và Đông Nam Á (Nguồn: Google, Temasek, Bain - 2020).

Phát triển thương mại điện tử

Theo Báo cáo thương mại điện tử Đông Nam Á năm 2020 của Google, Temasek và Bain & Company, thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 tăng 16% và đạt quy mô trên 14 tỷ USD. Trong đó, lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng 46%, gọi xe và đồ ăn công nghệ tăng 34% tiếp thị, giải trí và trò chơi trực tuyến tăng 18%, riêng lĩnh vực du lịch trực tuyến giảm 28%. Báo cáo này cũng dự đoán tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2020 - 2025 là 29% và tới năm 2025 quy mô thương mại điện tử nước ta đạt 52 tỷ USD. Về doanh thu, 10% doanh nghiệp cho biết, doanh thu năm 2020 tăng mặc dù sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh, trong khi đó, 50% doanh nghiệp bị giảm và 40% có doanh thu hầu như không thay đổi. Xu hướng các doanh nghiệp bán sản phẩm trên các sàn thương mại điện tử ngày càng tăng, đặc biệt là sau dịch bệnh Covid-19. Nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử đã tận dụng cơ hội trong dịch bệnh để tăng doanh thu, đặc biệt là các lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến, dịch vụ gọi xe và đồ ăn công nghệ, đây là những lĩnh vực mà nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao trong bối cảnh giãn cách khi không thể đi lại và mua sắm trực tiếp.

Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng, cơ hội cho phát triển thương mại điện tử với 96,5 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ (người trưởng thành chiếm khoảng 70%), đồng thời 72% dân số sở hữu điện thoại thông minh (smartphone), 130 triệu thuê bao di động, 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số). Ngoài ra, số lương công ty Fintech phát triển nhanh, cùng với ngân hàng trở thành đơn vị cung cấp giải pháp tài chính. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, năm 2020 số lượng công ty Fintech tại Việt Nam tăng gần 4 lần so với năm 2016. Tính đến năm 2019, Việt Nam có hơn 150 công ty hoạt động trong lĩnh vực Fintech. Trong đó, 65% các công ty hoạt động trong mảng thanh toán, 10,5% các công ty làm việc trong lĩnh vực gọi vốn cộng đồng.

Xây dựng Chính phủ điện tử

Đối với công tác thủ tục hành chính, trong giai đoạn 2011 – 2020, trên 50% thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh được cắt giảm. Môi trường kinh doanh được cải thiện, doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký. Nhiều mô hình kinh doanh mới dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Việt Nam nằm trong Top 10 quốc gia có bước nhảy vọt chỉ số phát triển Chính phủ điện tử mức cao và đặt mục tiêu trở thành top 4 quốc gia hàng đầu ASEAN về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử trước năm 2025, trong nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử thế giới năm 2030.

Đối với công tác quản lý doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao trình độ và tay nghề của người lao động. Đó là lý do khiến TFP trong giai đoạn 2016-2020 đã có sự tiến bộ rõ rệt so với giai đoạn 2011-2015.

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam trong công tác đổi mới sáng tạo

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sức ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có ngành ngân hàng. Trong xu thế đó, ngành ngân hàng đã và đang đứng trước sự chuyển đổi mạnh từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình ngân hàng số. Là ngân hàng có hiệu quả hoạt động dẫn đầu hệ thống ngân hàng Việt Nam, lợi nhuận liên tiếp bứt phá qua các năm, Vietcombank đã chủ động đổi mới một cách đồng bộ để phù hợp với xu thế được xem là một “cuộc cách mạng”, mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của một hệ giá trị mang tên “đổi mới - sáng tạo”. Để thúc đẩy công tác đổi mới sáng tạo, Vietcombank đã và đang triển khai đa dạng các giải pháp khác nhau.

Về chiến lược, ngay từ năm 2018, Vietcombank đã chủ động đánh giá hiện trạng nhận diện các cơ hội tiềm năng, nghiên cứu xây dựng mô hình chiến lược ngân hàng số đồng thời thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số, Trung tâm ngân hàng số, tái cấu trúc Khối công nghệ thông tin chuyển đổi số nhằm thống nhất chỉ đạo, đẩy mạnh đầu tư nguồn lực thúc đẩy chiến lược chuyển đổi số và văn hóa số trên toàn hệ thống. Vietcombank đã đề ra kế hoạch hành động chuyển đổi số với mục tiêu cụ thể, có lộ trình rõ ràng. Chương trình hành động chuyển đổi được triển khai qua 3 giai đoạn với 4 trụ cột gồm số hóa, dữ liệu, công nghệ và chuyển đổi, tập trung vào việc nâng cao trải nghiệm khách hàng, phát triển nguồn nhân lực số và cải tiến quy trình nghiệp vụ. Mới đây nhất, ngày 03/10/2022, Vietcombank đã tổ chức lễ khởi động Chương trình hành động chuyển đổi với sự tham gia của toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ chủ chốt của ngân hàng. Đối tác mà Vietcombank lựa chọn cho dự án này là công ty BCG, một trong những đơn vị tư vấn hàng đầu thế giới đã hợp tác với Vietcombank trong một số dự án lớn trước đây. Đây được xem là bước đầu của công cuộc hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số tại Vietcombank.

Về nhân sự, Vietcombank có cơ chế tuyển dụng riêng đối với ứng viên có kinh nghiệm, chuyên gia, lao động có trình độ cao, đặc biệt xuất sắc, nổi trội. Nhờ đó, Vietcombank có thể tuyển dụng được người lao động cần thiết cho một số lĩnh vực đặc thù, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho quá trình chuyển đổi số cũng như công tác đổi mới sáng tạo. Gần đây nhất, tháng 4/2022, Vietcombank đã tuyển dụng ông Trần Thanh Nam, một chuyên gia được các nhà tuyển dụng trên thị trường đánh giá là được đào tạo bài bản, chuyên sâu về lĩnh vực công nghệ thông tin, đã có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc, trải qua nhiều vị trí quản lý, cố vấn cấp cao tại tổ chức tín dụng và doanh nghiệp hoạt trong lĩnh vực công nghệ, dịch vụ tài chính, ngân hàng, làm Giám đốc Khối Vận hành và Giám đốc Đổi mới sáng tạo đầu tiên của Vietcombank. Ngoài ra, để thúc đẩy tinh thần nghiên cứu, sáng tạo của cán bộ, Vietcombank có chính sách khuyến khích các đơn vị, cá nhân tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học như chính sách chi trả thù lao cho các hoạt động nghiên cứu, tính điểm thưởng KPI cho các đơn vị có sản phẩm khoa học và công nghệ. Hình thức của nghiên cứu khoa học được thực hiện đa dạng, bao gồm: đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến, bài báo, bài nghiên cứu… Hiện Vietcombank đang tổ chức cuộc thi “Vietcombank: 60 năm Đổi mới & Sáng tạo” hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày thành lập, với mục đích tìm kiếm ý tưởng sáng tạo, sáng kiến, cải tiến đổi mới phục vụ hoạt động của Vietcombank. Cuộc thi này đã thu hút sự tham gia của số lượng lớn người lao động trong toàn hệ thống.

Về sản phẩm dịch vụ, Vietcombank đã đón đầu xu hướng công nghệ số, đưa ra nhiều sản phẩm, giải pháp cho khách hàng phù hợp bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 diễn ra phức tạp từ năm 2020. Theo đó, tháng 2/2021, Vietcombank chính thức ra mắt 4 gói tài khoản hoàn toàn mới dành cho khách hàng cá nhân với nhiều ưu đãi vượt trội khi giao dịch thẻ và giao dịch trên ngân hàng số VCB Digibank nhằm thúc đẩy giao dịch không dùng tiền mặt trên nền tảng công nghệ số. 4 gói tài khoản mới bao gồm: VCB Eco, VCB Plus, VCB Pro, VCB Advanced với tính năng đặc biệt vượt trội, dễ dàng đăng ký với nhiều sự lựa chọn dành cho khách hàng. Các gói tài khoản bao gồm các dịch vụ ngân hàng thường xuyên và thiết yếu cho khách hàng như: Tài khoản thanh toán; Ứng dụng Ngân hàng số VCB Digibank; Thông báo thay đổi số dư qua tin nhắn OTT (OTT Alert); Thẻ ghi nợ nội địa Vietcombank Connect 24 hoặc Thẻ ghi nợ quốc tế Vietcombank Visa. Khách hàng có thể trải nghiệm 1 trong 4 gói tài khoản mới với những lựa chọn được thiết kế phù hợp với nhu cầu giao dịch ngân hàng phổ biến trong thời đại ngân hàng số. Các sản phẩm dịch vụ này đã có sự đón nhận mạnh mẽ của khách hàng. Tiếp đó, tháng 11/2021, Vietcombank vừa ra mắt bộ giải pháp số hoàn toàn mới dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) đó là ứng dụng ngân hàng số VCB DigiBiz và các sản phẩm thẻ doanh nghiệp Vietcombank Visa Business… Có thể thấy sản phẩm dịch vụ của Vietcombank lấy khách hàng làm trọng tâm, luôn đổi mới sáng tạo để đáp ứng nhanh và kịp thời nhu cầu đa dạng của khách hàng hiện nay.

Ngoài ra, Vietcombank còn tích cực tham gia các chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo và các chương trình hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, điển hình như: (i) Tháng 12/2021, Vietcombank ký thoải thuận hợp tác chiến lược với Công ty Cổ phần Viet Lotus để thực hiện các Dự án về Đổi mới sáng tạo mở nhằm hỗ trợ Vietcombank thực hiện mục tiêu chiến lược đưa Vietcombank trở thành ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam và khu vực về chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; (ii) Vietcombank tích cực triển khai tham gia Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, đặc biệt là triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong giai đoạn 2022 - 2023 và các giải pháp hỗ trợ khác của ngành ngân hàng, nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Với những nỗ lực như trên, Vietcombank đã đạt nhiều giải thưởng liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo, điển hình như: 9 lần liên tục nằm trong danh sách “Top 10 thương hiệu mạnh Việt Nam”, kể từ lần đầu xét chọn vào năm 2008. Đây là chương trình xúc tiến thương mại đặc thù, dài hạn và duy nhất của Chính Phủ gắn với 3 giá trị “Chất lượng – Đổi mới, sáng tạo – Năng lực tiên phong”; 6 lần liên tiếp được vinh danh là ngân hàng mạnh nhất Việt Nam do tạp chí The Asian Banker bình chọn. Trong đó, năm 2021, với điểm số 3,59 trên 5, Vietcombank dẫn đầu bảng xếp hạng trong nhóm các ngân hàng Việt Nam…

Một số hạn chế về đổi mới, sáng tạo đối với nền kinh tế Việt Nam

Mặc dù có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, công tác đổi mới sáng tạo tại Việt Nam vẫn tồn đọng một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, mức độ sẵn sàng để đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế

Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, là một trong những lực lượng đóng góp chính vào sự tăng trưởng kinh tế. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về Đổi mới sáng tạo công bố vào cuối năm 2021 cho thấy 90% số doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiềm lực hạn chế, nên việc đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo còn gặp nhiều khó khăn, rào cản.

Mặc dù chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế là vậy, mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa cao. Theo khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin, tỷ lệ các doanh nghiệp đang triển khai các hoạt động chuyển đổi số chiếm khoảng 15%. Trong đó, theo báo cáo năm 2020 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, năm rào cản lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với công tác đổi mới, sáng tạo là: Chi phí cao; thiếu cơ sở hạ tầng; thiếu thông tin; thiếu nhân lực nội bộ; sợ rò rỉ thông tin.

Ngoài ra, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì các chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ đang đầu tư và ưu đãi cho các doanh nghiệp công nghệ cao nhưng chưa tập trung tối ưu hóa hiệu ứng lan tỏa của các doanh nghiệp này đối với doanh nghiệp nhỏ hơn trong nước.

Thứ hai, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu hiện nay chưa cao. Mối liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh nghiệp còn hạn chế. Theo báo cáo của Đoàn Giám sát Quốc hội, trong giai đoạn 2016-2021, không có đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp quốc gia nào áp dụng phương thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; chưa làm rõ được việc hình thành tài sản từ kết quả nghiên cứu. 

Bên cạnh đó, hiện thiếu cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ. Mặc dù ngân sách phân bổ cho lĩnh vực khoa học công nghệ còn thấp nhưng tỷ lệ sử dụng vẫn chưa cao. Thủ tục để hình thành, phê duyệt dự án đầu tư công còn nhiều bất cập. Việc áp dụng các quy trình, tiêu chuẩn chất lượng vào sản xuất đã làm tăng chi phí, nhưng giá bán sản phẩm tăng không đáng kể, từ đó khó thuyết phục doanh nghiệp vừa và nhỏ mạnh dạn chuyển đổi tập quán sản xuất, nhân rộng mô hình sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng cao. Chưa hội đủ các nhân tố để hình thành thị trường công nghệ nên việc giao dịch giới thiệu công nghệ, kết nối cung - cầu công nghệ được triển khai bằng các hình thức khác nhau nhưng còn mang nặng tính quản lý hành chính....

Thứ ba, thiếu cơ chế sandbox

Sandbox được hiểu là khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới. Trong giai đoạn 2016-2021 Việt Nam mới chỉ có hai cơ chế thí điểm có cách tiếp cận tương tự như một Sandbox là taxi công nghệ và Mobile Money. Cơ chế thí điểm này không có tính áp dụng chung, chỉ các doanh nghiệp có đề án được chấp thuận mới được tham gia cơ chế; chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan nhà nước: các cơ chế đều đặt ra các yêu cầu cụ thể với doanh nghiệp tham gia thí điểm và quy định trách nhiệm giám sát cụ thể cho các cơ quan nhà nước liên quan; có cơ chế tổng kết thí điểm: cả hai cơ chế đều có quy định về tổng kết, đánh giá các biện pháp quản lý với mục đích đề xuất ban hành chính sách quản lý cụ thể. Theo đó, cơ chế thí điểm không thực sự là tạo ra một không gian thuận lợi với khung chính sách pháp lý riêng nằm ngoài hoặc vượt khung pháp lý hiện tại để tiến hành thử nghiệm những khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới, vì vậy không phát huy hết ý nghĩa của sandbox là cho phép doanh nghiệp được miễn thực hiện những nghĩa vụ nhất định.

Một số giải pháp đề ra

Để đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, một số giải pháp đề ra như sau:

Thứ nhất, lan tỏa văn hóa đổi mới sáng tạo 

Trước tiên, văn hóa đổi mới sáng tạo cần được thiết lập tại mỗi đơn vị thông qua xây dựng phẩm chất tinh thần khởi tạo; xây dựng phương châm hợp tác đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo mở; xây dựng phương pháp, kỹ năng thực hành đổi mới sáng tạo. Trong đó, mỗi đơn vị, tổ chức cũng cần xây dựng chiến lược đổi mới sáng tạo để định vị được vị trí hiện tại, xác định các việc làm tiếp theo, bao gồm các khía cạnh: chiến lược tổ chức, chiến lược đổi mới, tầm nhìn và mục tiêu của tổ chức và chiến lược ra quyết định.

Lãnh đạo doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong công tác đổi mới sáng tạo thông qua việc cung cấp môi trường thích hợp và đưa ra các quuyết định nhằm nâng cao sự đổi mới, sáng tạo. Đây cũng là động lực rất lớn cho nhân viên phát huy văn hóa đổi mới sáng tạo trong công việc, nhiệm vụ được giao.

Từng cá nhân, người lao động trong tổ chức, doanh nghiệp cần tập cách nhìn vấn đề phải tự nghĩ xem có cách làm tốt hơn, hiệu quả hơn và sẵn sàng đưa ra ý tưởng, sáng kiến của mình nhằm cải tiến, nâng cao hiệu quả công việc.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh văn hóa học tập suốt đời trong từng đơn vị, tổ chức và cộng đồng. Theo đó, xây dựng hệ sinh thái để hỗ trợ mỗi công dân, mỗi người lao động được đào tạo lại và đào tạo nâng cao trong suốt cuộc đời: Lan tỏa động lực trong việc học tập, nhất là những người trong độ tuổi trưởng thành, người lao động làm việc trong các ngành nghề có rủi rot hay thế; triển khai khóa đào tạo và hỗ trợ trong các giai đoạn tuổi chuyển giao và tìm kiếm việc làm. Đồng thời, cần đề cao tinh thần tự học, tự phát triển của cá nhân để hướng đến mô hình “công dân học tập 4.0” với đầy đủ các kỹ năng: kỹ năng công dân toàn cầu, kỹ năng đổi mới sáng tạo, kỹ năng công nghệ thông tin, kỹ năng tương tác.

Thứ hai, hoàn thiện hành lang pháp lý cho đổi mới sáng tạo

Hành lang pháp lý cho đổi mới sáng tạo hiện nay bao gồm Luật Chuyển giao công nghệ 2017, các quyết định của Thủ tướng, các thông tư hướng dẫn trong lĩnh vực này đã được ban hành. Tuy nhiên, hoạt động đổi mới sáng tạo và thực thi chính sách, hỗ trợ đổi mới sáng tạo còn khá phân tán với nhiều bên tham gia, đôi khi không có sự phối hợp, điều phối và thậm chí còn cạnh tranh với nhau, dễ dẫn đến khả năng trùng lặp và lãng phí nguồn lực. Do vậy, hành lang pháp lý vẫn cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện mới đáp ứng được đòi hỏi từ thực tiễn về đổi mới sáng tạo cũng như công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, từ đó thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, các hệ thống đổi mới sáng tạo vùng, ngành, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. 

Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế “sandbox” để giúp các doanh nghiệp mạnh dạnn đưa ra những mô hình kinh doanh mới, từ đó mở ra những phương thức đầu tư mới, giúp bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp.

Thứ ba, tăng cường vai trò của ngành ngân hàng đối với việc kiến tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Kế hoạch “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ đã nêu rõ ngân hàng là lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân. Vì vậy, các ngân hàng thương mại cần khẩn trương phát triển mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm dịch vụ theo hướng tự động hoá quy trình, tối ưu hoá hoạt động nghiệp vụ. 

Tăng cường vai trò trung gian tài chính hiệu quả cho nền kinh tế, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng; đảm bảo cơ cấu dư nợ tín dụng ngành nghề, khu vực, lĩnh vực hợp lý, trong đó hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên cho phát triển nhanh nền kinh tế và giải quyết vấn đề an sinh xã hội, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; Để hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân khắc phục được khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid – 19, ngân hàng cần đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19; đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ và áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, phương thức quản lý hiện đại trong công tác chỉ đạo, điều hành, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chất lượng, đa tiện ích đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng hiện nay.

Thứ tư, tăng cường liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh nghiệp

Từ phía trường đại học, cơ sở đào tạo: cần nâng cao năng lực đào tạo thông qua bồi dưỡng trình độ của đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất thiết yếu; cập nhật, đổi mới chương trình nhằm bảo đảm chất lượng giáo dục; thiết lập bộ phận chuyên trách về liên kết, hợp tác với doanh nghiệp;  thường xuyên cung cấp thông tin về chương trình, giáo trình, nội dung, phương pháp giảng dạy cũng như đề xuất những nhu cầu thiết yếu khác tới phía doanh nghiệp; xây dựng cơ chế khuyến khích các tập thể và cá nhân trên danh nghĩa cơ sở đào tạo đại học ký kết hợp tác chiến lược toàn diện với doanh nghiệp.

Từ phía doanh nghiệp, thiết lập bộ phận chuyên trách phản biện để góp phần xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo cho trường đại học hướng theo nhu cầu sử dụng lao động từ phía doanh nghiệp; xây dựng chiến lược nuôi dưỡng, ươm mầm tài năng tại các trường đại học; chủ động phối hợp với trường đại học trong việc biên soạn giáo trình, nội dung và phương pháp giảng dạy.

Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo bổ sung nhân lực có trình độ, chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu của đổi mới sáng tạo

Thể chế hóa các quan điểm và định hướng của Đảng về đổi mới, sáng tạo đến toàn thể cán bộ, nhân viên trong doanh nghiệp, tổ chức, làm cho họ hiểu rõ tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, từ đó mỗi cá nhân cần chủ động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ khoa học công nghệ để thích ứng với những yêu cầu mới. Ngoài ra, doanh nghiệp, tổ chức cũng cần chú trọng đào tạo kỹ năng mềm, kỹ năng quản lý cho cán bộ quản lý cấp trung và cấp cao nhằm tạo sự đột phá về tư duy và kỹ năng quản lý. Bên cạnh đó, cần có nghiên cứu, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực nhằm tránh tình trạng thừa hoặc thiếu nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực có chất lượng cao nói riêng theo từng giai đoạn. 

Các cơ sở giáo dục đào tạo cần giảm bớt các môn học mang tính hàn lâm, tăng tính ứng dụng, điều chỉnh chương trình giảng dạy theo hướng chú trọng tới đào tạo liên ngành qua đó phát triển nguồn nhân lực đa năng bắt kịp xu hướng đổi mới sáng tạo; cập nhật chương trình giảng dạy học sinh - sinh viên theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, phổ cập số theo hướng đảm bảo cơ hội tiếp cận kỹ thuật số từ lúc trẻ tuổi; triển khai đào tạo chuyên sâu các môn học chủ đề STEM, trí tuệ nhân tạo (AI) để xây dựng nền tảng cho việc phát triển kiến thức về Công nghệ thông tin, đẩy mạnh đào tạo các chuyên ngành về công nghệ số, kinh tế số và xã hội số.

Đặng Hoài Linh - Đảng viên Chi bộ 23, Đảng bộ Vietcombank

 
.
.
.
.