.
.

TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 12-2023

Thứ Năm, 30/11/2023|17:13

 I - TÌNH HÌNH THỜI SỰ, CHÍNH TRỊ NỔI BẬT TRONG NƯỚC

Tổng Bí thư chủ trì họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Sáng 22/11, tại Hà Nội, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) họp dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo để thảo luận, cho ý kiến về kết quả chỉ đạo xử lý một số vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; kết quả chỉ đạo giám sát, làm rõ sai phạm, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật liên quan lĩnh vực ngân hàng, tài chính, tài sản công, định giá, tự chủ tài chính, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp.

Thường trực Ban Chỉ đạo đánh giá, từ sau Phiên họp thứ 23 của Ban Chỉ đạo (tháng 1/2023) đến nay, các cơ quan chức năng đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, thực hiện nghiêm Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói chung, công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nói riêng tiếp tục được đẩy mạnh, quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả hơn cả ở Trung ương và địa phương; tiến độ điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo cơ bản đáp ứng yêu cầu, có vụ vượt kế hoạch đề ra. Nổi bật là, từ sau Phiên họp thứ 23 đến nay, Ban Chỉ đạo tiếp tục theo dõi, chỉ đạo 68 vụ án, 45 vụ việc; đã khởi tố mới 12 vụ án/45 bị can, khởi tố bổ sung 238 bị can trong 23 vụ án; kết luận điều tra và kết luận điều tra bổ sung 20 vụ án/369 bị can; ban hành cáo trạng truy tố 15 vụ án/252 bị can; xét xử sơ thẩm 13 vụ án/194 bị cáo; xét xử phúc thẩm 13 vụ án/82 bị cáo.

Từ sau Phiên họp 24 đến nay, đã khởi tố mới 3 vụ án/9 bị can, khởi tố bổ sung 95 bị can trong 12 vụ án; kết luận điều tra 7 vụ án/174 bị can, kết luận điều tra bổ sung 3 vụ án/21 bị can; truy tố 5 vụ án/71 bị can; xét xử sơ thẩm 2 vụ án/38 bị cáo; xét xử phúc thẩm 5 vụ án/11 bị cáo. Các cơ quan chức năng cũng đã chủ động phát hiện, đấu tranh, mở rộng điều tra, khởi tố mới nhiều bị can trong các vụ án tham nhũng, tiêu cực lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, vi phạm có tổ chức, liên quan nhiều bộ, ngành, địa phương, cả trong khu vực nhà nước và ngoài khu vực nhà nước, gây bức xúc trong nhân dân. Cụ thể như, vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB và các đơn vị, tổ chức liên quan, đã mở rộng điều tra, khởi tố thêm 2 vụ án, khởi tố mới 72 bị can (trong đó, có 23 bị can là lãnh đạo cấp vụ, cục, cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm toán, thanh tra giám sát ngân hàng và cán bộ lãnh đạo thanh tra, ngân hàng một số địa phương); vụ án xảy ra trong lĩnh vực đăng kiểm đến nay đã khởi tố 114 vụ án, 808 bị can tại 49 địa phương; đã kết luận điều tra, đề nghị truy tố các vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á, Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Sài Gòn Co.op.

5 vụ án trọng điểm theo kế hoạch của Ban Chỉ đạo đã hoàn thành xét xử sơ thẩm, gồm: Vụ án xảy ra tại Dự án khu thương mại và dân cư Tân Việt Phát 2, phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Vụ án xảy ra tại Cục lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số đơn vị liên quan; Vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới xảy ra tại khóm 5, phường Châu Phú An, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; Vụ án xảy ra tại Dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi (giai đoạn II); Vụ án xảy ra tại Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh, Công ty AIC và đơn vị liên quan. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tập trung kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; các vụ việc nổi cộm, có nhiều dư luận, liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kê khai tài sản, thu nhập,... Trong đó, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã tiến hành 9 cuộc kiểm tra đối với các tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm liên quan các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; chỉ đạo kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 76 tổ chức đảng liên quan các vụ án, vụ việc xảy ra tại Tập đoàn FLC, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Công ty AIC. Đến nay, đã hoàn thành 3 cuộc kiểm tra. Qua kiểm tra, đã xử lý kỷ luật 26 tổ chức đảng, 57 đảng viên, trong đó có 7 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (gồm: 3 nguyên Bí thư tỉnh ủy; 4 Chủ tịch, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh).

Từ đầu năm đến nay, các bộ, ngành, địa phương đã chuyển 480 vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện trong quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán đến các cơ quan điều tra để điều tra, xử lý theo quy định. Công tác thu hồi tài sản trong các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo tiếp tục có chuyển biến tích cực. Từ đầu năm đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, ngăn chặn giao dịch tài sản có giá trị hơn 232.000 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị khác; các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được hơn 9.000 tỷ đồng, nâng tổng số tiền thu hồi được trong các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đến nay là 75.800 tỷ đồng (đạt tỷ lệ 49,44%). Về nhiệm vụ thời gian tới, Thường trực Ban Chỉ đạo yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tập trung xử lý dứt điểm những việc đang dở dang, những khâu còn yếu, những vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Nhất là tập trung kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, xử lý nghiêm các vi phạm liên quan các vụ án, vụ việc xảy ra tại Công ty Việt Á, Công ty AIC, Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát,…

Từ nay đến hết năm 2023 phấn đấu: kết thúc xác minh, xử lý 10 vụ việc; ban hành cáo trạng truy tố 5 vụ án; xét xử sơ thẩm 7 vụ án, xét xử phúc thẩm 3 vụ án. Nhất là, ban hành cáo trạng truy tố đối với 2 vụ án: Vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB và các đơn vị, tổ chức liên quan; Vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn FLC, Công ty Chứng khoán BOS và các công ty liên quan. Đưa ra xét xử sơ thẩm 4 vụ án trọng điểm: Vụ án xảy ra tại Học viện Quân y Bộ Quốc phòng (liên quan đến hợp tác, nghiên cứu sản xuất kit test Covid-19 với Công ty Việt Á); Vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Hải Dương và các đơn vị, địa phương liên quan; Vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh; Vụ án xảy ra tại Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op). Các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương tăng cường kiểm tra, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế, tiêu cực...

Phát biểu kết luận cuộc họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao Ban Nội chính Trung ương - Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo đã chuẩn bị chu đáo nội dung báo cáo, vừa bao quát vừa cụ thể và đề xuất được nhiều vấn đề để Thường trực Ban Chỉ đạo thảo luận. Các đồng chí dự họp trên cơ sở vị trí công tác của mình đã có ý kiến rất trách nhiệm, thiết thực nhằm rút ra những kinh nghiệm tốt cần tiếp tục phát huy và những mặt chưa tốt phải điều chỉnh. Qua đó, cuộc họp thống nhất cao tinh thần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, cuộc đấu tranh này còn lâu dài, thực tiễn luôn biến động không ngừng cho nên phải kiên trì đấu tranh, vừa làm vừa tổng kết thực tiễn để làm tốt hơn nữa. Từ Trung ương tới địa phương, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt, tất cả đồng tâm, nhất trí làm cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn. Chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật, Tổng Bí thư nhấn mạnh đó là những sơ hở cần phải sớm có phương án khắc phục, làm sao để các vụ án, vụ việc phải được xử lý triệt để, bao giờ xong mới thôi, cần thiết thì ra thêm thời hạn; quá trình làm, các cơ quan chức năng thấy pháp luật quy định còn thiếu hoặc chưa phù hợp thì phải kịp thời đề xuất điều chỉnh, bổ sung. Làm tốt việc này thì cũng sẽ tránh được tình trạng chậm trễ, trì trệ, ảnh hưởng tiến độ công việc.

Tổng Bí thư đề nghị xem xét, đánh giá thực tiễn hoạt động của các Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để phát huy những mặt đạt được, rút ra những kinh nghiệm hay nhằm tăng cường hơn nữa vai trò, hiệu quả của các cơ quan này. Tại Cuộc họp này, Thường trực Ban Chỉ đạo đã yêu cầu các cơ quan liên quan khẩn trương thực hiện nghiêm các kiến nghị, đề xuất tại Báo cáo kết quả chỉ đạo giám sát của Đảng đoàn Quốc hội; chỉ đạo kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan, báo cáo kết quả về Ban Chỉ đạo tại Phiên họp thứ 25.

Chủ tịch nước tham dự Tuần lễ cấp cao APEC 2023

Nhận lời mời của Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Joe Biden, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) 2023 và tổ chức các hoạt động song phương tại Hoa Kỳ từ ngày 14 đến ngày 17/11/2023. Đây là chuyến đi có ý nghĩa đặc biệt, đánh dấu 25 năm Việt Nam tham gia APEC. Trong 25 năm qua, Việt Nam đã đóng góp tích cực, trách nhiệm và hiệu quả vào tất cả các lĩnh vực hợp tác, để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong tiến trình của APEC.

Thành công của chuyến công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong các hoạt động đối ngoại đa phương và song phương, góp phần tiếp tục duy trì và củng cố cục diện đối ngoại hòa bình, ổn định, thuận lợi sự phát triển đất nước. Trong khuôn khổ các hoạt động tham dự Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2023 và các sự kiện liên quan, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã có hàng loạt hoạt động bao gồm tham dự các cuộc họp, cuộc làm việc, tiếp xúc song phương...

Chủ tịch nước đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị các Nhà Lãnh đạo các nền kinh tế APEC lần thứ 30; tham dự và phát biểu dẫn đề tại Hội nghị Thượng đỉnh Doanh nghiệp (CEO Summit); tiếp Liên minh Doanh nghiệp Hoa Kỳ APEC; dự Cuộc gặp các nhà lãnh đạo cấp cao Khuôn khổ hợp tác kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF); dự đối thoại giữa các nhà lãnh đạo APEC và Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC); dự đối thoại và ăn trưa và làm việc với Khách mời; dự Phiên họp hẹp các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC. Chủ tịch nước cũng đã dành thời gian thăm quan, nói chuyện với các doanh nghiệp Việt Nam có gian hàng trưng bày trong thời gian diễn ra Tuần lễ Cấp cao APEC.

Tại Hội nghị các Nhà Lãnh đạo các Nền Kinh tế APEC, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu 3 bài học cho tương lai và 3 phương hướng hoạt động của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, trong thời gian Tuần lễ Cấp cao APEC, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã có các cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC và các khách mời. Chủ tịch nước đã có các cuộc gặp gỡ, trao đổi với: Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ về Khí hậu John Kerry; Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim; Quốc vương Brunei Haji Hassanal Bolkiah; Thủ tướng Canada Justin Trudeau; Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Tổng thống Peru Dina Ercilia Boluarte Zegarra. Tại các cuộc gặp, lãnh đạo các nền kinh tế, các khách mời đánh giá cao vị thế, vai trò của Việt Nam; nhất trí tăng cường trao đổi đoàn, đẩy mạnh hợp tác chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, kết nối giữa các địa phương của Việt Nam và các nước, giao lưu nhân dân cũng như ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn khu vực và quốc tế.

Thực hiện các hoạt động song phương tại Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã tiếp Thống đốc bang California Gavin Newsom; tiếp Phó Thị trưởng Los Angeles Erin Bromaghim. Chủ tịch nước đã tham dự và phát biểu tại Bàn tròn kết nối doanh nghiệp, địa phương về công nghệ cao; tiếp đại diện các công ty và tập đoàn lớn hàng đầu Hoa Kỳ về hàng không và công nghệ: Công ty Boeing và công ty Apple. Nhân dịp này, Chủ tịch nước đã thăm một gia đình Việt Kiều; gặp gỡ lãnh đạo và cán bộ các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Hoa Kỳ; thăm Bệnh viện Y, Đại học Stanford.

Đáng chú ý, Chủ tịch nước đã phát biểu, trao đổi chính sách tại Hội đồng Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ (CFR). Bài phát biểu của Chủ tịch nước về tình hình thế giới, đường lối đối ngoại của Việt Nam và quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ tại CFR được các giới tại Hoa Kỳ đánh giá rất cao.

Thủ tướng tham dự Hội nghị COP 28 và thăm chính thức Thổ Nhĩ Kỳ

Chiều 28/11, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Phu nhân dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời Thủ đô Hà Nội, lên đường dự Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 28 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP28), hoạt động song phương tại Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) và thăm chính thức Thổ Nhĩ Kỳ từ ngày 29/11 đến ngày 3/12, theo lời mời của Chính phủ UAE và Chính phủ Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ.

Đây là chuyến công tác có ý nghĩa quan trọng, góp phần triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, là dịp thể hiện tầm vóc, vai trò và vị thế của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới, khẳng định trách nhiệm và cam kết của Việt Nam trong tham gia xử lý các thách thức toàn cầu. Đặc biệt, chuyến công tác diễn ra ngay sau khi ra mắt cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chuyến công tác khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam về tăng trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu; góp phần củng cố tin cậy chính trị, nâng cao hiệu quả hợp tác giữa Việt Nam và UAE, Thổ Nhĩ Kỳ; phát đi thông điệp về cam kết mạnh mẽ và đóng góp trách nhiệm của một Việt Nam hòa hiếu, chân thành, tin cậy, sẵn sàng tăng cường quan hệ hữu nghị, đối thoại và hợp tác cùng có lợi, xây dựng môi trường khu vực và quốc tế hòa bình, ổn định với các nước. Qua đó tiếp tục cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về "tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế" và Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; đồng thời là hoạt động có ý nghĩa đúng dịp kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ và 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - UAE.

Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV thành công tốt đẹp

Sáng 29/11, Quốc hội đã bế mạc Kỳ họp thứ 6 sau 22,5 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, khoa học, dân chủ và trách nhiệm cao. Kỳ họp đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. 

Phát biểu bế mạc Kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, với tỷ lệ tán thành rất cao, Quốc hội đã biểu quyết thông qua 07 luật, 08 nghị quyết; thảo luận, cho ý kiến 08 dự án luật khác; thảo luận, quyết nghị nhiều nội dung quan trọng khác và ban hành Nghị quyết chung của Kỳ họp. 

Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Khái quát và nhấn mạnh một số kết quả của Kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, Quốc hội đã thảo luận kỹ lưỡng tình hình và kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nước, đầu tư công năm 2023 và thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024; quyết định Kế hoạch đầu tư công năm 2024; cho ý kiến về báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ kết quả triển khai thực hiện các kế hoạch 05 năm giai đoạn 2021 - 2025 về phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, đầu tư công trung hạn, tài chính quốc gia và vay, trả nợ công; Kế hoạch tài chính - ngân sách, đầu tư công 03 năm 2024 - 2026; kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Quốc hội nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; vừa chú trọng giải quyết các khó khăn, tháo gỡ các vướng mắc trước mắt vừa phải bám sát các mục tiêu, yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế, trên cơ sở thúc đẩy các đột phá chiến lược. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách, các quy hoạch, kế hoạch quốc gia, vùng, ngành, tỉnh, gắn với nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là các dự án, công trình trọng điểm quốc gia. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội, an sinh xã hội, sớm xây dựng, trình Quốc hội xem xét, quyết định Chương trình mục tiêu quốc gia về chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam; triển khai đồng bộ cải cách chính sách tiền lương từ ngày 01/7/2024. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, khắc phục có kết quả tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, siết chặt kỷ luật hành chính, kỷ cương công chức, công vụ; đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm…

Thông qua nhiều luật, giải quyết những vấn đề thực tiễn cấp bách

Quốc hội đã xem xét, biểu quyết thông qua 02 nghị quyết quy phạm pháp luật và 07 luật. Quốc hội đã tiếp tục cho phép thí điểm một số chính sách đặc thù để đẩy nhanh tiến độ, tạo thuận lợi tối đa trong tổ chức đầu tư 21 dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm đường bộ kết nối vùng và liên tỉnh. Việc áp dụng các quy định về thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024 theo hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) có tính cấp thiết để vừa chủ động giành được quyền đánh thuế bổ sung, vừa tạo môi trường đầu tư thuận lợi để giữ chân và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Quốc hội cũng đã cho ý kiến lần đầu đối với 08 dự án luật gồm: Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi); Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; Luật Đường bộ; Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Luật Lưu trữ (sửa đổi); Luật Thủ đô (sửa đổi); Luật Tổ chức tòa án nhân dân (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản. 

Đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi) và dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) do tính chất đặc biệt quan trọng và phức tạp của 02 dự án Luật này, Quốc hội đã thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến rất xác đáng, đồng thời đã cân nhắc thận trọng nhiều mặt và quyết định xem xét, thông qua tại Kỳ họp gần nhất để có thêm thời gian nghiên cứu, tiếp thu, làm rõ những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, bảo đảm chất lượng và tính khả thi của các luật này sau khi được ban hành. 

Đẩy nhanh tiến độ các Chương trình mục tiêu quốc gia

Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao việc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và thông qua Nghị quyết về kết quả giám sát chuyên đề với nhiều nội dung quan trọng, nhiều kiến nghị, giải pháp để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả, chất lượng các Chương trình mục tiêu quốc gia trong thời gian tới. Quốc hội đồng ý để Chính phủ khẩn trương xây dựng, trình Quốc hội tại kỳ họp gần nhất dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù và việc phân cấp cho cấp huyện quyết định danh mục, cơ cấu, phân bổ sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong triển khai thực hiện các Chương trình.

Bên cạnh đó, Quốc hội đã dành 2,5 ngày tiến hành chất vấn Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ và các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành về việc thực hiện các nghị quyết giám sát chuyên đề, chất vấn của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 với 21 lĩnh vực thuộc 04 nhóm nội dung: kinh tế tổng hợp; kinh tế ngành; nội chính, tư pháp; văn hóa, xã hội. 

Quốc hội đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với 44 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Công tác lấy phiếu tín nhiệm được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng và được thực hiện chặt chẽ theo đúng quy trình, quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, bảo đảm dân chủ, minh bạch, công tâm và khách quan. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm được công bố công khai, rộng rãi và nhận được sự đồng tình, đánh giá cao của cử tri, Nhân dân cả nước...

Từ thành công và kết quả tốt đẹp của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và của Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV cùng nhiều kết quả quan trọng đã đạt được sau nửa nhiệm kỳ, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh: "Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và vào cuộc tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ, đồng lòng, nỗ lực và tâm huyết của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, nhất định chúng ta sẽ vượt qua các khó khăn, thách thức, nắm bắt được thời cơ, hoàn thành cao nhất các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, 2024 và cả giai đoạn 2021 - 2025, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng".

Để các luật, nghị quyết của Quốc hội sớm đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức quán triệt, triển khai các luật, nghị quyết đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 6. Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội sớm báo cáo cử tri cả nước kết quả Kỳ họp, thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ, lắng nghe, phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri, nhất là về những vấn đề cấp bách nảy sinh trong thực tiễn đòi hỏi phải có quyết sách kịp thời, phù hợp; tích cực giám sát việc tổ chức, thi hành Hiến pháp và pháp luật, việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. 

I - TIN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG ỦY KHỐI VÀ CƠ SỞ

Nỗ lực xứng đáng là lực lượng tiên phong, khẳng định vai trò của doanh nghiệp Nhà nước

Sáng 25/11, tại Hà Nội, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã chủ trì buổi làm việc với Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương về kết quả công tác nửa nhiệm kỳ 2020-2025 và năm 2023. Tham gia chủ trì buổi làm việc, có  đồng chí Nguyễn Long Hải, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Cùng dự buổi làm việc, có đồng chí Nguyễn Quang Dương, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; đồng chí Nguyễn Đức Phong, Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ Khối; đồng chí Hồ Xuân Trường, Phó Bí thư Đảng uỷ Khối; đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương; các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối, Uỷ viên BCH Đảng bộ Khối; các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ; Chủ tịch HĐTV/HĐQT, Tổng giám đốc các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại Nhà nước trong Khối.

Báo cáo tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối cho biết, nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025 và năm 2023, Đảng ủy Khối đã bám sát Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối lần thứ III và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại các buổi làm việc, Đảng ủy Khối và các cấp ủy đảng trong toàn Đảng bộ đã chủ động ban hành và triển khai các nghị quyết, chương trình công tác năm, ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện, triển khai đồng bộ, hiệu quả các mặt công tác xây dựng Đảng và nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh.

Năm 2023, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối chọn chủ đề công tác năm: “Tập trung xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ”, vừa thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác theo kế hoạch, vừa quyết liệt hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, thành lập cơ quan, tham mưu giúp việc tại các đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, tổ chức triển khai sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối; tiếp tục thực hiện sơ kết, tổng kết các nghị quyết, quy định của Trung ương; rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế và tổ chức thực hiện các quy chế, quy định phù hợp với văn bản mới của Trung ương.

Công tác chính trị, tư tưởng được tiếp tục được đổi mới. Việc nắm bắt và định hướng dư luận xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất, đồng thuận. Công tác kiện toàn, củng cố tổ chức đảng được thực hiện thường xuyên. Công tác cán bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định; thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý đúng quy trình, quy định. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nền nếp, đúng kế hoạch.

Công tác dân vận của Đảng tiếp tục được quan tâm; các phong trào thi đua yêu nước và “Dân vận khéo” được lan tỏa. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp ngày càng đi vào nền nếp, kịp thời giải quyết những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người lao động. Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò giám sát, phản biện, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng doanh nghiệp.

Các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Khối đã lãnh đạo, chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức. Các doanh nghiệp, ngân hàng trong Khối cố gắng, nỗ lực có nhiều giải pháp trong sản xuất kinh doanh đạt kết quả tích cực, thể hiện rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước góp phần kiềm chế lạm phát, bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế; là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động của thị trường, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, công tác an sinh xã hội; thực hiện nghiêm nghĩa vụ với Nhà nước, đóng góp quan trọng vào ngân sách quốc gia.

Tại buổi làm việc, đại diện các đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước trực thuộc đã phát biểu nhiều nội dung liên quan đến công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị; đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác Đảng, nâng cao chất lượng, cải tiến phong cách, lề lối làm việc của các đảng bộ trực thuộc...

Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Trương Thị Mai ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực và kết quả đạt được của Đảng ủy Khối nói chung, các đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng. Đồng chí Thường trực Ban Bí thư khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn dành sự quan tâm, ưu tiên, tập trung đầu tư cho khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian qua, Đảng ủy Khối có nhiều nỗ lực, ban hành nhiều văn bản, tích cực thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã xây dựng, ban hành Chương trình hành động, thực hiện Nghị quyết, Chương trình công tác nhiệm kỳ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo trong cả nhiệm kỳ và hằng năm, bám sát các văn bản chỉ đạo của Đảng, đặc biệt nghị quyết Trung ương lần thứ 3, 4, 5, 6, 7 và các kết luận, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Tán thành 6 nhiệm vụ trọng tâm Đảng ủy Khối đề ra, đồng chí Thường trực Ban Bí thư yêu cầu, các đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước của Đảng ủy Khối nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn diện về vị trí, vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực. Thông tin về vấn đề quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2026 - 2031 tại Hội nghị Trung ương 8 vừa qua, đồng chí Trương Thị Mai nhấn mạnh, đây là bước khởi đầu quan trọng của quá trình xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ khóa XIV với tinh thần phải làm từng bước, từng việc, chắc chắn, chặt chẽ; làm cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng và thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát những cán bộ đã được đưa vào quy hoạch. Trong đó, đại diện một số doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện quy hoạch nhằm góp phần tham mưu cho Đảng về đường lối, quan điểm, chủ trương đối với khu vực doanh nghiệp.

Với 36 đảng bộ trực thuộc của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại, hơn 142 nghìn đảng viên (đứng thứ 6/67 tổ chức Đảng trực thuộc Trung ương), đồng chí Thường trực Ban Bí thư khẳng định: “Đảng mạnh thì doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp mạnh thì Đảng mạnh. Với mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, cán bộ của Đảng, phải được Đảng quan tâm, đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch, phát triển và liên thông trong hệ thống chính trị”.

Đồng chí Thường trực Ban Bí thư mong muốn, các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Khối tiếp tục nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, tập trung sức mạnh để phát huy truyền thống, nền tảng đã được xây dựng, củng cố trong bối cảnh khó khăn, thách thức. Từ đó, xứng đáng là lực lượng tiên phong trong khối doanh nghiệp, xứng đáng là doanh nghiệp Nhà nước về tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, năng lực quản trị tiên tiến, văn hóa, trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường, đóng góp cao nhất cho các mục tiêu phát triển đất nước đến giai đoạn 2030-2045.

Hội nghị Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương tháng 11/2023

Ngày 30/11, tại Hà Nội, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị Ban Thường vụ tháng 11/2023. Đồng chí Nguyễn Long Hải, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương chủ trì Hội nghị.

Tham dự Hội nghị, có đồng chí Nguyễn Đức Phong, Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ Khối; các đồng chí Phó Bí thư Đảng uỷ Khối: Lê Văn Châu, Hồ Xuân Trường; đại diện lãnh đạo cấp vụ Ban Nội chính Trung ương và các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã cho ý kiến vào Tờ trình về kết quả rà soát, bổ sung quy hoạch chức danh Bí thư, Phó Bí thư; việc kiện toàn bổ sung Ban Chấp hành, Ban Thường vụ; điều chỉnh cơ cấu đề án nhân sự Uỷ ban Kiểm tra các đảng ủy trực thuộc, nhiệm kỳ 2020-2025 và 2025-2030; cho ý kiến về nhân sự quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối, giai đoạn 2026 - 2031; Tờ trình về việc ban hành Quy trình kiểm tra, giám sát và xem xét, thi hành kỷ luật đảng của chi bộ trong Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương; Tờ trình về việc xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và các nội dung khác. 

Hội nghị góp ý vào dự thảo Quy chế làm việc mẫu của Ban Chấp hành Đảng bộ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp Nhà nước

Ngày 23/11, tại Hà Nội, Ban Tổ chức Trung ương và Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị góp ý vào dự thảo Quy chế làm việc mẫu của Ban Chấp hành Đảng bộ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp Nhà nước. Đồng chí Nguyễn Quang Dương, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; đồng chí Nguyễn Long Hải, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương chủ trì Hội nghị.

Tham dự Hội nghị, có đồng chí Hồ Xuân Trường, Phó Bí thư Đảng uỷ Khối; đại diện lãnh đạo cấp Vụ Ban Tổ chức Trung ương; lãnh đạo các ban, đơn vị của Đảng uỷ Khối; thành viên Tổ Biên tập; các đồng chí bí thư (phó bí thư thường trực), trưởng ban tổ chức 15 đảng uỷ cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng uỷ Khối.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Nguyễn Long Hải, Bí thư Đảng uỷ Khối cho biết: Thực hiện Quy định số 87-QĐ/TW, ngày 28/10/2022 của Ban Bí thư quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Đảng uỷ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp Nhà nước, Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương tổ chức Hội nghị để các đảng uỷ cấp trên cơ sở tham gia góp ý kiến hoàn thiện dự thảo Quy chế làm việc (mẫu) của Ban Chấp hành Đảng bộ doanh nghiệp trước khi trình Ban Bí thư. Quy chế này ban hành sẽ là căn cứ để các đảng uỷ trực thuộc triển khai thực hiện công tác xây dựng Đảng, xây dựng doanh nghiệp; công tác tổ chức, cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo đúng quy định.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã tham gia góp ý vào dự thảo Quy chế làm việc mẫu của Ban Chấp hành Đảng bộ cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp Nhà nước.

Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Quang Dương, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh: Dự thảo Quy chế làm việc mẫu gồm 5 Chương với 22 Điều. Nội dung Quy chế làm việc đầy đủ, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân, mối quan hệ công tác, nguyên tắc, chế độ làm việc,… đồng thời bổ sung những nội dung mới phù hợp với thực tiễn và các quy định mới của Đảng. Đồng chí Nguyễn Quang Dương đề nghị Tổ Biên tập tiếp thu đầy đủ các ý kiến của các đại biểu tại Hội nghị; tổng hợp trình Ban Tổ chức Trung ương trong thời gian tới, sớm ban hành Quy chế làm việc mẫu để thực hiện.

Lớp bồi dưỡng Ủy viên Ban Thường vụ các Đảng ủy trực thuộc Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2023

Thực hiện Kế hoạch số 106-KH/ĐUK, ngày 31/10/2023 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, từ ngày 08/11/2023 - 10/11/2023, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương phối hợp với Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức lớp bồi dưỡng cho Ủy viên Ban Thường vụ là trưởng các cơ quan tham mưu, giúp việc đảng ủy cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối năm 2023.

Tham dự lớp bồi dưỡng có 24 đồng chí là Trưởng ban Tuyên giáo, 22 đồng chí là Trưởng ban Tổ chức, 25 đồng chí là Chủ nhiệm/Thủ trưởng cơ quan Ủy ban Kiểm tra và 02 đồng chí là Chánh văn phòng đảng ủy cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối. Tại lớp bồi dưỡng, các học viên đã được các giảng viên là Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đồng thời là lãnh đạo Học viện, lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các viện chuyên ngành của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, với kiến thức lý luận và thực tiễn sâu sắc, phong phú đã truyền đạt nội dung của các chuyên đề nhằm củng cố, bổ sung kiến thức cơ bản, cốt lõi về: (1) Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; (2) Kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay; (3) Nhiệm vụ, quyền hạn, phương pháp công tác của đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước. Việc bảo đảm vai trò lãnh đạo xuyên suốt, toàn diện của đảng ủy trong doanh nghiệp Nhà nước; (4) Nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy, tổ chức đảng trong công tác đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; (5) Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; (6) Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thông qua các nội dung chuyên đề bài giảng phù hợp với đặc thù đội ngũ cán bộ trong Đảng bộ Khối và với sự truyền đạt hiệu quả của các giảng viên đã góp phần giúp cho các học viên nhận thức rõ hơn những vấn đề mới đang đặt ra đối với cấp ủy trong doanh nghiệp Nhà nước, xác định rõ trách nhiệm trên cương vị công tác hiện tại và vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm được truyền đạt vào phục vụ tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ công tác của cấp ủy cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối trong thời gian tới.

Phát biểu bế giảng lớp học, đồng chí Nguyễn Duy Bắc, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã biểu dương tinh thần và kết quả học tập của các đồng chí học viên. Đồng chí nhấn mạnh: Việc mở các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho các đồng chí lãnh đạo cấp ủy đảng, lãnh đạo doanh nghiệp các cấp là hoạt động phối hợp thường niên với yêu cầu phải đảm bảo nội dung liên quan về lý luận chính trị, công tác xây dựng Đảng, công tác lãnh đạo, quản lý nhưng đồng thời có cả nội dung chuyên môn về quản lý doanh nghiệp tại các đơn vị, do đó, đây cũng là một nhiệm vụ nặng nề mà Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương giao cho Học viện. 

Qua báo cáo tổng kết lớp, có thể thấy chương trình năm nay khá phù hợp và bổ ích với các học viên. Học viện sẽ tiếp tục xây dựng, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, các chuyên gia kinh tế đầu ngành trong nước và quốc tế để xây dựng các chương trình, chuyên đề bồi dưỡng tại Học viện ngày một chất lượng, thực tế và hiệu quả, vừa làm tốt nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, vừa nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, vừa cập nhật với những vấn đề quản lý doanh nghiệp hiện đại trong nước và quốc tế. Trong quá trình học tập, các đồng chí học viên đã chấp hành nghiêm túc quy chế đào tạo, bồi dưỡng của Học viện, hầu hết đã tham gia đầy đủ các buổi học; phát huy tinh thần trách nhiệm cao trong việc tham gia trao đổi, thảo luận, đóng góp vào thành công chung của lớp học. Đặc biệt, thông qua lớp bồi dưỡng cũng là dịp để các học viên cùng nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp xử lý các tình huống đã và đang diễn ra ở mỗi đơn vị, doanh nghiệp; cùng hỗ trợ, phối hợp để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chuyên môn và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới của mỗi cá nhân, đơn vị. Kết thúc khóa học, 100% học viên đủ điều kiện viết bài thu hoạch và được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa bồi dưỡng.

Hội nghị lần thứ 17, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối, nhiệm kỳ 2020 – 2025

Ngày 31/10/2023, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã tổ chức Hội nghị lần thứ 17, đồng chí Phan Công Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Khối chủ trì Hội nghị.

Hội nghị xem xét, kết luận một số nội dung, cụ thể như sau:

1. Xem xét, thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm thuộc Chi bộ Đầu tư xây dựng - Quản lý dự án nhiệm kỳ 2020-2022, trực thuộc Đảng ủy Công ty Cổ phần Phân lân Nung chảy Văn Điển

Sau khi nghe Đoàn Kiểm tra số 39 của UBKT Đảng ủy Khối báo cáo đề nghị thi hành kỷ luật đối với đồng chí Võ Anh Tuấn, Bí thư Chi bộ và các đồng chí Chu Văn Thước, đồng chí Nguyễn Anh Long, đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ Đầu tư xây dựng - Quản lý dự án nhiệm kỳ 2020-2022, trực thuộc Đảng ủy Công ty CP Phân lân Nung chảy Văn Điển; UBKT Đảng ủy Khối đã thảo luận, xem xét, kết luận và biểu quyết bằng phiếu kín, quyết định thi hành kỷ luật đối với đồng chí Võ Anh Tuấn bằng hình thức Cảnh cáo; thi hành kỷ luật đồng chí Chu Văn Thước và Nguyễn Anh Long bằng hình thức Khiển trách.

2. Về kết quả thực hiện Thông báo Kết luận Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm tại Đảng bộ HUD4 của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối.

Sau khi nghe Đoàn Kiểm tra số 30 báo cáo kết quả thực hiện Thông báo số 88-TB/UBKTĐUK, ngày 21/8/2023 về Kết luận Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm tại Đảng bộ HUD4 của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối, UBKT Đảng ủy Khối thảo luận và thống nhất: (1). Đồng ý với Báo cáo của Đoàn Kiểm tra về kết quả kiểm điểm của các tổ chức đảng và kết quả xem xét, xử kỷ thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm; (2). Giao Thường trực UBKT Đảng ủy Khối có văn bản chỉ đạo Ban Thường vụ Đảng ủy HUD tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng có liên quan tiếp tục thực hiện đầy đủ yêu cầu tại Thông báo số 88-TB/UBKTĐUK; (3). Xem xét thi hành kỷ luật về hành chính đối với các cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật về đảng; (4). Thực hiện sắp xếp, bố trí cán bộ bị kỷ luật theo Quy định số 41-QĐ/TW; (5). Giao Phòng Nghiệp vụ I theo dõi, đôn đốc Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng Công ty HUD triển khai thực hiện.

3. Xem xét, kết luận giám sát chuyên đề đối với Đảng ủy và đồng chí Phó Bí thư phụ trách Đảng bộ Tổng Công ty Cà phê Việt Nam

Sau khi nghe Đoàn Giám sát số 38 báo cáo, UBKT Đảng ủy Khối thảo luận và thống nhất: Yêu cầu Đoàn Giám sát số 38 tiếp thu các ý kiến tham gia của Ủy viên UBKT; bổ sung, làm rõ một số nội dung trong báo báo cáo; trình Thường trực UBKT cho ý kiến trước khi xin ý kiến UBKT Đảng ủy Khối.

Đối với Dự thảo quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết tố cáo của chi bộ. Đồng chí Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Khối đề nghị các đồng chí Ủy viên UBKT tiếp tục nghiên cứu, tham gia ý kiến trực tiếp vào dự thảo văn bản gửi về Cơ quan UBKT trước ngày 06/11/2023 để tiếp thu, trình Thường trực, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối.

UBKT Đảng ủy Khối yêu cầu, UBKT các đảng ủy trực thuộc chủ động tham mưu cấp ủy cùng cấp triển khai thực hiện hoàn thành chương trình kiểm tra, giám sát năm 2023 của cấp ủy và UBKT.

Petrovietnam về đích sớm các chỉ tiêu sản xuất, tài chính quan trọng

Ngày 22/11 tại Hà Nội, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã tổ chức Lễ mừng công về đích sớm các chỉ tiêu sản xuất, tài chính quan trọng trong năm 2023. 

Năm 2023 là năm có rất nhiều khó khăn đối với cộng đồng doanh nghiệp cả nước nói chung và ngành Dầu khí và Petrovietnam nói riêng. Đó là tình hình địa chính trị quốc tế và Biển Đông diễn biến phức tạp, gia tăng, khó đoán định. Biến động lớn về cung-cầu và giá các sản phẩm năng lượng suy giảm mạnh so với năm 2022, trong đó giá dầu thô giảm 17- 38%, giá phân bón giảm 25- 30%, biên lợi nhuận lọc hóa dầu suy giảm 24-26%. Bên cạnh đó, lạm phát toàn cầu duy trì ở mức cao, cầu về tiêu dùng hàng hóa suy giảm mạnh... Song với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự hỗ trợ các Ban/Bộ/ngành Trung ương, địa phương và đặc biệt là sự đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm cao của toàn thể cán bộ nhân viên, người lao động Tập đoàn, cùng với việc phát huy hiệu quả, kịp thời kinh nghiệm trong công tác quản trị biến động của Ban điều hành Tập đoàn đã giúp Petrovietnam hoàn thành và về đích trước kế hoạch cả năm 2023 ở hầu hết các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh quan trọng.

Cụ thể, Petrovietnam hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu tài chính trước từ 1,5 - 5 tháng kế hoạch cả năm 2023 được Chính phủ, UBQLVNN và HĐTV Tập đoàn giao. Trong đó, nộp ngân sách toàn Tập đoàn hoàn thành kế hoạch năm trước 5 tháng (đạt 78,3 nghìn tỷ đồng vào ngày 30/7/2023); thực hiện 10 tháng đạt 121 nghìn tỷ đồng, vượt 54% kế hoạch cả năm. Lợi nhuận hợp nhất toàn Tập đoàn hoàn thành kế hoạch năm trước 4 tháng (đạt 34,7 nghìn tỷ đồng vào ngày 31/8/2023); thực hiện 10 tháng đạt 44,1 nghìn tỷ đồng, vượt 27% kế hoạch năm. Tổng doanh thu toàn Tập đoàn hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng, 20 ngày (đạt 677,7 nghìn tỷ đồng vào ngày 10/10/2023); thực hiện 10 tháng đạt 745 nghìn tỷ đồng, vượt 10% kế hoạch năm. Tổng doanh thu hợp nhất Tập đoàn hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng, 18 ngày (đạt 413,7 nghìn tỷ đồng vào ngày 12/10/2023); thực hiện 10 tháng đạt 440,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6% kế hoạch năm.

Tổng doanh thu Công ty mẹ - Tập đoàn đã hoàn thành kế hoạch cả năm trước 1 tháng 15 ngày (đạt 181,6 nghìn tỷ đồng vào 15/11/2023); Lợi nhuận trước thuế Công ty mẹ - Tập đoàn hoàn thành kế hoạch cả năm trước 4 tháng (đạt 10,9 nghìn tỷ đồng vào ngày 31/8/2023); thực hiện 10 tháng đạt 18,9 nghìn tỷ đồng, vượt 73% kế hoạch năm. Đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành kết quả tài chính của Petrovietnam là 2 lĩnh vực nổi bật là tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí cùng chế biến dầu khí, tồn trữ và phân phối các sản phẩm dầu khí.

Lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí của Petrovietnam đã có một thành công lớn trong năm 2023 khi hoàn thành chỉ tiêu gia tăng trữ lượng dầu khí cả năm trước 1 tháng 10 ngày (đạt 12 triệu tấn quy dầu/kế hoạch cả năm 8-16 triệu tấn quy dầu vào ngày 20/11/2023). Đồng thời, Petrovietnam đã có thêm 02 phát hiện dầu khí mới tại Lô 16-2 (giếng khoan Hà Mã Vàng -1X) và tại lô PM3-CAA (giếng khoan Bunga Lavatera-1). Đây là kết quả rất đáng khích lệ khi lần đầu tiên trong vòng 5 năm trở lại đây, Tập đoàn có 2 phát hiện mới trong một năm.  Sản lượng khai thác dầu trong nước đã hoàn thành kế hoạch cả năm trước 1 tháng 18 ngày khi đạt 7,52 triệu tấn vào ngày 12/11/2023. Tính đến hết ngày 21/11, sản lượng khai thác dầu trong nước đã đạt 7,71 triệu tấn, vượt 2,5% kế hoạch năm, góp phần quan trọng để Tập đoàn hoàn thành kế hoạch khai thác dầu (trong và ngoài nước) cả năm khi đạt mốc 9,29 triệu tấn vào ngày 21/11 - sớm hơn so với kế hoạch cả năm 1 tháng 9 ngày.

Trong lĩnh vực sản xuất, sản lượng sản xuất xăng dầu (không bao gồm Nghi Sơn) của Petrovietnam đã hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng 25 ngày (đạt 5,53 triệu tấn vào ngày 06/10/2023); thực hiện 10 tháng đạt 6,08 triệu tấn, vượt 10% kế hoạch năm, tăng 6,0% so với cùng năm 2022. Sản lượng kinh doanh xăng dầu của Tập đoàn hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng (đạt 9,06 triệu tấn vào ngày 30/10/2023. PVOIL hoàn thành kế hoạch cả năm 3,3 triệu tấn trước 4 tháng; PVNDB dự kiến hoàn thành kế hoạch cả năm 5,76 triệu tấn trước 20 ngày (vào ngày 10- 11/12/2023) góp phần quan trọng trong việc duy trì nguồn cung xăng dầu phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội từ đó khẳng định Petrovietnam đã thực hiện tốt nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã giao đó là: "Trong moi tình huống, không để đứt gãy, không để thiếu nguồn cung xăng dầu phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hôi". Kết quả đạt được đã cho thấy hiệu quả trong công tác quản trị, điều hành của Petrovietnam cũng như nỗ lực của các nhà thầu và đơn vị trong việc triển khai hoạt động tìm kiếm thăm dò và sản xuất kinh doanh.

VietinBank kỷ niệm 35 năm thành lập

Ngày 24/11/2023 tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã long trọng tổ chức Chương trình Kỷ niệm 35 năm xây dựng và phát triển (1988 - 2023).

Suốt 35 năm qua, VietinBank đã không ngừng đổi mới, trở thành thương hiệu hàng đầu trong ngành tài chính ngân hàng Việt Nam. Kết quả này thể hiện tinh thần đoàn kết, bản lĩnh, trí tuệ, sức sáng tạo của các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, người lao động VietinBank và sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương và địa phương. VietinBank cũng liên tục lọt vào Top 500 thương hiệu ngân hàng có giá trị nhất thế giới theo bảng xếp hạng của Brand Finance và liên tiếp nhiều năm nằm trong Top 2000 doanh nghiệp lớn nhất thế giới theo bảng xếp hạng của tạp chí Forbes cùng nhiều giải thưởng uy tín trong nước và quốc tế.

So với ngày đầu thành lập, tổng tài sản hợp nhất của VietinBank tăng trưởng hơn 2.600 lần – tương ứng gần 1,9 triệu tỷ đồng; dư nợ tín dụng tăng hơn 2.300 lần - đạt hơn 1,4 triệu tỷ đồng. VietinBank có mạng lưới giao dịch lớn thứ 2 trong hệ thống các NHTM tại Việt Nam với 9 đơn vị sự nghiệp, 2 Văn phòng đại diện, 155 Chi nhánh, gần 1.000 Phòng giao dịch, 7 Công ty con, 3 Chi nhánh, Ngân hàng con tại nước ngoài. Tổng lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2019 - 2023 ước đạt hơn 90 nghìn tỷ đồng, gấp 2,3 lần so với giai đoạn 5 năm trước đó; các chỉ số sinh lời luôn nằm trong nhóm các ngân hàng dẫn đầu. VietinBank cũng là ngân hàng nhiều năm liền nằm trong Top 10 doanh nghiệp đóng góp Ngân sách Nhà nước cao nhất. Với chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng, VietinBank là ngân hàng Việt Nam đầu tiên khai trương Chi nhánh tại Đức năm 2011; tiếp đến mở chi nhánh tại Viêng Chăn – Lào và Văn phòng đại diện tại Myanmar. Năm 2015, VietinBank đã nâng cấp Chi nhánh Lào thành Ngân hàng con tại Lào.

Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của nền kinh tế, VietinBank chủ động chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh doanh nhằm đáp ứng toàn diện nhu cầu của khách hàng, củng cố, phát triển hoạt động ngân hàng thương mại, phát triển hoạt động ngân hàng đầu tư; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong phát triển sản phẩm, dịch vụ; tiên phong trong hoạt động thanh toán; không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng tới khách hàng; áp dụng nhiều công cụ quản lý chất lượng và trải nghiệm khách hàng. VietinBank quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế - bảo đảm phát triển an toàn, bền vững trên nền tảng công nghệ hiện đại hàng đầu ngành Ngân hàng Việt Nam. VietinBank là một trong những ngân hàng đầu tiên được NHNN lựa chọn thí điểm thực hiện phương pháp tiên tiến nhất trong việc triển khai Hiệp ước Basel II và chính thức đáp ứng đầy đủ quy định tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN kể từ ngày 1/1/2021.

VietinBank đi đầu trong việc chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ về an sinh xã hội. Đến nay, VietinBank đã và đang thực hiện tài trợ số tiền gần 9.000 tỷ đồng cho các chương trình an sinh xã hội tại tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Những đóng góp của VietinBank trong công tác an sinh xã hội đã được Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Ngành, các địa phương và nhân dân trong cả nước ghi nhận và đánh giá cao.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, VietinBank sẽ tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp và những thành tựu đã đạt được, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thành công các mục tiêu, định hướng chiến lược đề ra với sứ mệnh là ngân hàng tiên phong, trụ cột, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở mang lại giá trị tối ưu cho khách hàng, cổ đông, người lao động, đối tác và cộng đồng.

Phát biểu tại Chương trình kỷ niệm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng ghi nhận, biểu dương những thành tựu, đóng góp tích cực của VietinBank vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong suốt 35 năm qua. Thống đốc mong muốn VietinBank tiếp tục tăng trưởng an toàn, bền vững, hiệu quả, xứng đáng với vai trò là một trong các ngân hàng thương mại hàng đầu, chủ đạo, dẫn dắt thị trường trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của ngành ngân hàng; tập trung nguồn lực để tiếp tục cơ cấu lại toàn diện mọi mặt hoạt động theo hướng nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động và cải thiện, nâng cao năng lực tài chính, phấn đấu sớm đạt trình độ phát triển của Nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN, nằm trong top 100 ngân hàng lớn nhất (theo tiêu chí sức mạnh) trong khu vực châu Á. Trong đó, cần quan tâm quản trị tốt chất lượng tăng trưởng, thúc đẩy chuyển đổi số; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đề cao đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, tính tuân thủ, thượng tôn Pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa cốt lõi của VietinBank; tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội để thực hiện tốt công tác hỗ trợ an sinh xã hội, góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo chủ trương của Đảng, Nhà nước.

Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp làm việc với TKV

Sáng 28/11, tại trụ sở Tập đoàn, đoàn công tác Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp do đồng chí Hồ Sỹ Hùng - Phó Chủ tịch Ủy ban làm trưởng đoàn có buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) về tình hình sản xuất kinh doanh năm 2023 và kế hoạch năm 2024.

Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo Tập đoàn đã báo cáo với đoàn công tác Ủy ban về tình hình thực hiện kế hoạch SXKD năm 2023, dự kiến doanh thu toàn tập đoàn ước đạt 170 ngàn tỷ đồng, đạt 100,6% KHN và bằng 102% so với 2022; lợi nhuận ước đạt trên 5 ngàn tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước đạt khoảng 30 nghìn tỷ, bằng 147% so với KH và bằng 139% so với 2022; đảm bảo việc làm cho khoảng 94 nghìn lao động với mức thu nhập bình quân 14,9 tr đồng/ng/thg, trong đó thu nhập bình quân khối than đạt 15,4 triệu đồng/ng/thng; các chỉ tiêu tài chính tiếp tục được duy trì ổn định. Trong công tác đầu tư, TKV hiện đang triển khai 554 dự án với tổng mức đầu tư trên 94,8 ngàn tỷ đồng, tổng giá trị đầu tư năm 2023 đạt 8,7 ngàn tỷ đồng. Trong đó, có các dự án lớn như Dự án khai thác xuống sâu dưới mức -150 mỏ Mạo Khê; Dự án khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II-IV; Dự án khai thác xuống sâu mức -35 khu Lộ Trí, Công ty Than Thống Nhất và Dự án Nhiệt điện Na Dương II.

Triển khai kế hoạch nhiệm vụ năm 2024, TKV triển khai đồng bộ các giải pháp đảm bảo cung ứng than cho điện theo các hợp đồng đã ký kết, dự kiến năm 2024 sản lượng than cho điện khoảng 44 triệu tấn, tăng 5 triệu tấn so với 2023. 

Phát biểu chỉ đạo kết luận buổi làm việc, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp Hồ Sỹ Hùng đề nghị TKV tiếp tục hoàn thiện quy chế tài chính; quán triệt và triển khai đầy đủ các nhiệm vụ trong đề án cơ cấu lại; xây dựng kế hoạch đầu tư đảm bảo hiệu quả. Đối với những kiến nghị của TKV, Phó Chủ tịch Ủy ban yêu cầu cần có sự phối hợp giữa Ủy ban, các Vụ trực thuộc với TKV cùng xem xét có ý kiến với các bộ, ngành và tổng hợp báo cáo kiến nghị Chính phủ giải quyết.

Bộ Công Thương làm việc với các tập đoàn, tổng công ty về giải pháp bảo đảm an ninh cung ứng điện năm 2024

Ngày 24/11, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì buổi làm việc với 3 tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu khí Việt Nam, Than - Khoáng sản Việt Nam và các tổng công ty: Đông Bắc, Khí Việt Nam về việc triển khai kế hoạch cung ứng điện, biểu đồ cung cấp than, khí cho sản xuất điện và các giải pháp bảo đảm an ninh cung ứng điện năm 2024.

Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp đã báo cáo tình hình thực hiện cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện năm 2023 và dự kiến kế hoạch năm 2024; các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp, kiến nghị đối với Bộ Công Thương để đảm bảo cung ứng đủ điện năm 2024 và cung cấp đủ than, khí cho sản xuất điện năm 2024.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao và ghi nhận sự nỗ lực của các tập đoàn, tổng công ty trong việc bảo đảm cung ứng điện và cung cấp nhiên liệu than, khí cho sản xuất điện thời gian qua, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, góp phần kiềm chế lạm phát, cũng như duy trì đảm bảo chế độ chính sách cho người lao động tại các đơn vị.

Để đảm bảo an ninh cung ứng điện trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty trong mọi tình huống không được để xảy ra tình trạng thiếu điện, thiếu nhiên liệu than và khí cung cấp cho sản xuất điện để phục vụ cho nền kinh tế và đời sống sinh hoạt của người dân; không được để xảy ra tình trạng đứt gãy nguồn cung năng lượng và tình trạng sự cố tổ máy phát điện kéo dài. Ngoài ra, các tập đoàn, tổng công ty trong lĩnh vực năng lượng cần tiếp tục thực hiện đầy đủ chỉ đạo của Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến việc cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện.

Bộ Công Thương yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty thực hiện nghiêm Kế hoạch cung ứng điện và Biểu đồ cung cấp than năm 2024 đã được Bộ Công Thương phê duyệt; tăng cường phối hợp hiệu quả; thực hiện tốt các hợp đồng mua bán điện, cung cấp than, cung cấp khí cho sản xuất điện theo nguyên tắc tất cả vì mục tiêu chung, vì lợi ích quốc gia dân tộc; thực hiện nghiêm điều khoản cam kết tại các Hợp đồng mua bán điện, mua bán than/khí cho sản xuất điện đã ký.

Các tập đoàn, tổng công ty khẩn trương chỉ đạo, khắc phục triệt để những hư hỏng, sự cố của các nhà máy và các tổ máy (nếu có) trong phạm vi quản lý, bảo đảm các nhà máy đủ khả năng hoạt động và sẵn sàng vận hành tối đa công suất trong điều kiện kỹ thuật cho phép. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Chủ đầu tư các nhà máy điện trực thuộc trong việc thực hiện: Chỉ thị số 29/CT-TTg ngày 02/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 08/6/2023 về việc tăng cường tiết kiệm điện giai đoạn 2023-2025 và các năm tiếp theo; Quyết định số 279/QĐ-TTg ngày 08/3/2018 phê duyệt Chương trình quốc gia về Quản lý nhu cầu điện giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030; và các nhiệm vụ được Bộ trưởng Bộ Công Thương giao tại các Văn bản liên quan. Làm tốt công tác truyền thông trong thời gian tới để người dân, các thành phần kinh tế chia sẻ và hỗ trợ vượt qua khó khăn trong hoạt động sản xuất doanh...

Giá điện tăng ảnh hưởng đến ngành thép

Ngày 09/11/2023 Tập đoàn Điện lực Việt Nam đưa ra thông báo, giá bán lẻ điện bình quân tăng thêm 4,5%. Với lần tăng giá điện này, cộng với mức tăng giá lần 1 (ngày 4/5/2023), giá điện bán lẻ đã tăng thêm hơn 142,35 đồng/kWh từ đầu năm. Với ngành thép, điện được xem là một trong những chỉ tiêu tiêu hao năng lượng chính trong quá trình sản xuất thép, đặc biệt ở công đoạn luyện thép bằng lò điện (chi phí điện chiếm 7-8% trong sản xuất thép).

Trước thực tế này, ngoài các đề xuất về chính sách hỗ trợ của chính phủ, các cơ quan quản lý và kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp thép, Tổng công ty Thép Việt Nam - CTCP (VNSTEEL) chỉ đạo các doanh nghiệp trong hệ thống áp dụng các giải pháp sau: Tiết giảm tối đa các chi phí đầu vào để giảm thiểu tác động của việc tăng giá điện; Áp dụng các giải pháp tiết kiệm điện và sử dụng năng lượng hiệu quả như: sản xuất trong giờ thấp điểm, tăng cường phun than và thổi oxy trong quá trình luyện thép để giảm tiêu hao năng lượng tổng thể, tận dụng nhiệt dư trong quá trình luyện thép để tái sử dụng và nhiều biện pháp khác. 

Một số doanh nghiệp trong Khối đạt chuẩn Văn hóa kinh doanh Việt Nam 2023

Trong khuôn khổ Diễn đàn quốc gia thường niên “Văn hóa với Doanh nghiệp” lần thứ ba năm 2023 với chủ đề: “Văn hóa kinh doanh - dòng chảy phát triển và hội nhập” vừa được tổ chức tại T.P Hồ Chí Minh, đã có 20 doanh nghiệp được vinh danh là “Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hoá kinh doanh Việt Nam” năm 2023, trong đó có một số đơn vị thuộc Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Diễn đàn do Ban Tuyên giáo Trung ương; Bộ Công Thương; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ban Tổ chức triển khai Cuộc vận động “Xây dựng Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”; Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện. Để được công nhận đạt chuẩn văn hóa kinh doanh Việt Nam, doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn bắt buộc, gồm 5 nhóm chính: Nhóm 1 - Các tiêu chí về lãnh đạo doanh nghiệp phát triển bền vững; Nhóm 2 - Xây dựng và thực thi văn hóa doanh nghiệp; Nhóm 3 - Thượng tôn pháp luật; Nhóm 4 - Đạo đức kinh doanh; Nhóm 5 - Trách nhiệm xã hội. Bên cạnh đó là 16 tiêu chí và 40 chỉ số như: Tiêu chí định hướng phát triển bền vững, bộ máy tổ chức nguồn lực, hệ thống truyền thông thương hiệu, quản trị tri thức trong doanh nghiệp, uy tín trong kinh doanh,…

*  Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) là một trong số 20 “Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hóa kinh doanh Việt Nam” năm 2023, qua đó tiếp tục khẳng định uy tín thương hiệu với bề dày 30 năm hình thành và phát triển. Vietnam Airlines tự hào là Hãng hàng không Quốc gia - đôi cánh kết nối giao thương, văn hoá giữa Việt Nam với thế giới cũng như góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội các vùng miền trong cả nước.

Trong suốt những năm qua, Vietnam Airlines luôn khẳng định vị thế dẫn đầu của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam, không ngừng phát triển vươn tầm khu vực và thế giới với những chuyến bay an toàn tuyệt đối cùng chất lượng dịch vụ đẳng cấp 4 sao quốc tế, hướng tới 5 sao. Là Tập đoàn hàng không có trách nhiệm, Vietnam Airlines tự hào đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia, an sinh xã hội bằng việc tạo ra hàng chục nghìn việc làm ổn định trong mảng vận tải hàng không, vận tải hàng hóa và các lĩnh vực hỗ trợ. Cùng với đó, Hãng còn là “cái nôi” nuôi dưỡng, đào tạo nên nguồn nhân lực hàng không với hàng nghìn lao động, nhà quản lý, phi công, kỹ sư… chất lượng cao. Là hãng Hàng không hiện đại với thương hiệu được biết đến rộng rãi nhờ bản sắc văn hóa riêng biệt, Vietnam Airlines kiên định với 05 giá trị cốt lõi: An toàn là số 1, khách hàng là trung tâm, người lao động là tài sản quý giá nhất, không ngừng sáng tạo và Tập đoàn hàng không có trách nhiệm. Đây là nền tảng và là kim chỉ nam trong mọi hoạt động, giúp Hãng vượt qua những khó khăn, thách thức trong đại dịch Covid-19 và trở lại mạnh mẽ để hướng tới trở thành hãng hàng không quốc tế chất lượng 5 sao dẫn đầu khu vực châu Á. Với giải thưởng “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa kinh doanh Việt Nam”, Vietnam Airlines một lần nữa tự hào khi nhận được sự đánh giá cao và ghi nhận của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, xã hội… về các giá trị văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp tốt đẹp mà Vietnam Airlines đã dầy công vun đắp. Đồng thời, danh hiệu này cũng mở ra cho Hãng cơ hội nâng cao uy tín, thương hiệu, thu hút nguồn nhân lực, cơ hội kinh doanh mới thông qua việc gia tăng lòng tin của các đối tác, nhà đầu tư và cổ đông, góp phần vào việc phát triển kinh doanh bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Thời gian qua, Vietnam Airlines liên tiếp được trao tặng những giải thưởng quy mô khu vực và toàn cầu như “Hãng hàng không hàng đầu châu Á về hạng ghế Phổ thông”, “Hãng hàng không hàng đầu Châu Á về bản sắc văn hóa”, “Hãng hàng không hàng đầu Châu Á về dịch vụ phi hành đoàn” và “Hãng hàng không hàng đầu Châu Á về tạp chí trên không” của World Travel Awards 2023; Top 20 hãng hàng không tốt nhất thế giới của Airline Ratings năm 2023, Hãng hàng không quốc tế 5 sao của tổ chức APEX,…

* Để được ghi nhận và tôn vinh là “Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hóa kinh doanh Việt Nam” năm 2023, Tổng công ty Viễn thông MobiFone đã đáp ứng phần thẩm định với Bộ tiêu chí đánh giá theo 5 nhóm với 16 tiêu chí và 40 chỉ số. Các nhóm tiêu chí đánh giá bao gồm: Lãnh đạo doanh nghiệp phát triển bền vững; Xây dựng và thực thi văn hóa doanh nghiệp; Thượng tôn pháp luật; Đạo đức kinh doanh và Trách nhiệm xã hội. Đây đều là những tiền đề quan trọng trong việc đánh giá mức độ thực thi văn hóa nội bộ, văn hóa kinh doanh tại các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Chia sẻ tại Lễ tôn vinh và trao chứng nhận “Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hóa kinh doanh Việt Nam” năm 2023, Phó Tổng giám đốc Bùi Sơn Nam cho biết, đây là vinh dự lớn mà Tổng công ty Viễn thông MobiFone có được sau thời gian dài nỗ lực xây dựng văn hóa kinh doanh nhằm hiện thực hóa sứ mệnh không ngừng sáng tạo, đổi mới, kiến tạo hệ sinh thái số hoàn chỉnh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người Việt và góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số. Đây sẽ là tiền đề, là động lực để MobiFone tiếp tục vững tin trên con đường đã chọn – lấy văn hóa làm nền tảng quan trọng cho sự phát triển. Là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực Viễn thông – Công nghệ thông tin, MobiFone đã và đang chuyển đổi mạnh mẽ, thích ứng nhanh với thời đại số dựa trên sức mạnh nội tại là văn hóa của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp sẽ là kim chỉ nam, là “sức mạnh mềm” giúp MobiFone tiến nhanh hơn trên hành trình chuyển đổi số, từng bước chuyển mình thành một doanh nghiệp công nghệ số, đóng góp vào công cuộc Chuyển đổi số Quốc gia.

* Năm 2023, có 5 doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đạt chuẩn văn hóa kinh doanh (chiếm tỷ lệ 25% tổng số doanh nghiệp được công nhận), bao gồm: Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PV Drilling); Công ty CP PVI; Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcomBank); Công ty TNHH MTV Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch (PV Power NT) - đơn vị thành viên của Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power); Công ty Chế biến Khí Vũng Tàu (PV GAS Vũng Tàu) - đơn vị trực thuộc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS).

Như vậy, qua 3 lần Ban tổ chức xét duyệt và công nhận danh hiệu này, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và 11 đơn vị thành viên đã được công nhận “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa kinh doanh” trong tổng số 54 doanh nghiệp được công nhận trên cả nước, chiếm tỷ lệ 22%. Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận trong hành trình tái tạo Văn hóa Petrovietnam, với việc luôn đề cao văn hóa doanh nghiệp Petrovietnam với các giá trị cốt lõi “Khát vọng - Trí tuệ - Chuyên nghiệp - Nghĩa tình” trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như chỉ đạo, định hướng của Ban lãnh đạo Petrovietnam “Tái tạo văn hóa đi trước, củng cố, tạo đà cho tái tạo kinh doanh”.

Chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 của SCIC

Ngày 10 tháng 11 năm 2023, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã ký Quyết định số 1336/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035; Kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển đến năm 2025 của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 của SCIC là tiếp tục tập trung triển khai nhiệm vụ tiếp nhận, cổ phần hóa, tái cơ cấu, bán vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ vốn, thực hiện tốt và có hiệu quả vai trò là định chế, công cụ của Chính phủ để hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại, sắp xếp đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Củng cố SCIC để bảo đảm đủ các nguồn lực tài chính, quản trị để tập trung thực hiện nhiệm vụ đầu tư kinh doanh vốn, đầu tư và phát triển các dự án đầu tư có quy mô lớn, quan trọng, điều hành và định hướng phát triển các công ty con theo chiến lược phát triển của SCIC; hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn. Thực hiện đầu tư kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường và nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. Từng bước chuyển đổi mô hình hoạt động của SCIC theo mô hình tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, định hướng sau năm 2025 SCIC trở thành tổ chức đầu tư tài chính có quy mô vốn chủ sở hữu hàng đầu tại Việt Nam. Chiến lược đưa ra mục tiêu hoạt động cụ thể từng giai đoạn. Cụ thể:

- Giai đoạn đến 2025:

+ Đối với hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước từ các Bộ, ngành, địa phương để tiếp tục cơ cấu lại vốn tại các doanh nghiệp này thông qua hoạt động đầu tư, nắm giữ, thoái vốn, sắp xếp, chuyển đổi sở hữu...; tiếp nhận doanh nghiệp, phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp theo nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao để hỗ trợ phục hồi, cơ cấu lại vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

+ Đối với hoạt động đầu tư kinh doanh vốn, SCIC thực hiện 2 nhóm nhiệm vụ: (i) Đầu tư kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường vào những ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả và SCIC có lợi thế theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bảo toàn và phát triển vốn, không giới hạn lĩnh vực đầu tư; (ii) Đầu tư kinh doanh vốn theo nhiệm vụ chính trị được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; trong đó tập trung những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu mà Nhà nước cần nắm giữ, hoặc tham gia để hỗ trợ xử lý khó khăn tài chính cho doanh nghiệp do khủng hoảng tài chính hoặc các nguyên nhân bất khả kháng.

- Giai đoạn 2026 - 2030: Tập trung nguồn lực để đẩy mạnh hoạt động đầu tư kinh doanh vốn, trong đó tập trung đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng, các dự án lớn, quan trọng, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn: đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt có tính chất dẫn dắt, mở đường....

- Giai đoạn 2031 - 2035: SCIC hoạt động theo mô hình tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp, là công cụ, kênh đầu tư của Chính phủ vào nền kinh tế.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao và vai trò là tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, SCIC tập trung đầu tư vào: (i) các lĩnh vực, dự án trọng điểm; (ii) các lĩnh vực, dự án hiệu quả và (iii) thu hút vốn đầu tư từ xã hội và từ nước ngoài; bao gồm một số lĩnh vực cụ thể như sau:

- Đầu tư vào các dự án, ngành, lĩnh vực then chốt: Tập trung, ưu tiên xem xét các cơ hội đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực và dự án trọng điểm mà Nhà nước cần tập trung đầu tư và nắm giữ chi phối, được xác định tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 và tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước; đồng thời, đảm bảo năng lực tài chính của SCIC và hiệu quả đầu tư theo nguyên tắc thị trường như:

+ Lĩnh vực công nghệ cao (viễn thông, công nghệ thông tin...), kinh tế số (hạ tầng số, hệ thống cơ sở dữ liệu...), năng lượng (năng lượng tái tạo, năng lượng sạch...); các dự án hạ tầng trọng điểm (cảng hàng không, đường bộ, đường sắt), đô thị thông minh, y học - y tế hiện đại, dược phẩm; tài chính - ngân hàng; nông nghiệp công nghệ cao...;

+ Đầu tư vào các Tập đoàn, Tổng công ty, ngân hàng thương mại,...;

+ Đầu tư bổ sung vốn vào một số doanh nghiệp lớn, đang hoạt động hiệu quả và có tiềm năng trong danh mục đầu tư hiện hữu của SCIC để phục vụ kế hoạch đầu tư phát triển của doanh nghiệp;

+ Đầu tư vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế dựa trên khoa học và công nghệ.

- Đầu tư kinh doanh vốn vào ngành, lĩnh vực theo nhiệm vụ chính trị được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; thực hiện bằng nguồn vốn của Chính phủ hoặc nguồn vốn do SCIC tự cân đối.

Bảo Việt đạt Top21 Báo cáo thường niên và Báo cáo phát triển bền vững tốt nhất thế giới

Tập đoàn Bảo Việt đã được Hiệp hội Truyền thông chuyên nghiệp Hoa Kỳ (League of American Communication Professional - LACP) tôn vinh với nhiều hạng mục giải thưởng quan trọng. Đặc biệt, Bảo Việt đã đạt Giải Bạch Kim cho cả Báo cáo thường niên và Báo cáo phát triển bền vững xuất sắc nhất trong lĩnh vực Tài chính - Bảo hiểm.

Trong mùa giải năm nay, Bảo Việt tự hào với nhiều giải thưởng quan trọng, đặc biệt là Giải Bạch Kim danh giá nhóm ngành Tài chính - Bảo hiểm (Best reports within its industry: Platinum Award) cho cả Báo cáo thường niên và Báo cáo Phát triển bền vững. Đồng thời, Bảo Việt cũng đạt vị trí Top 5 Báo cáo thường niên xuất sắc nhất của Việt Nam (Country-Based Honors: Top 5 Vietnamese Reports), Giải Bạc cho Báo cáo tiến bộ vượt trội thế giới 2022 (Worldwide Most Improved Reports: Silver), Giải Vàng cho Báo cáo cải tiến vượt trội Châu Á 2022 (Asia-Pacific Most Improved Reports: Gold) và Giải Báo cáo ứng dụng công nghệ xuất sắc 2022 (Technical Achievement Award). Chất lượng báo cáo của Bảo Việt đã nhận được đánh giá cao từ hội đồng thẩm định khi đạt điểm tuyệt đối 6/7 hạng mục quan trọng với tổng điểm 98/100. Với thành tích này, Báo cáo thường niên của Bảo Việt đã đứng ở vị trí số 1, dẫn đầu trong danh sách Báo cáo thường niên tốt nhất khu vực Châu Á (Asia-Pacific Top 80 Reports Ranking: #1) và thứ 21/100 Báo cáo thường niên tốt nhất thế giới (Worldwide Top 100 Reports Rankings: #21).

Hướng tới 60 năm thành lập (15/01/1965-15/01/2025), Bảo Việt sử dụng thông điệp “Hiệu quả để thành công” trong Báo cáo thường niên với mong muốn thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong năm 2022 khi tối ưu hóa các nguồn lực trong hoạt động kinh doanh để hướng tới kết quả tốt nhất, sẵn sàng đối mặt với những thách thức từ môi trường kinh doanh, xã hội. Thông qua các mục tiêu chiến lược, thúc đẩy hợp tác giữa các đơn vị trong hệ thống, bài bản trong hoạt động đầu tư, Bảo Việt từng bước hoàn thành kế hoạch hàng năm, phát triển bền vững, hướng tới thành công. Với việc lựa chọn thông điệp “Sống hạnh phúc cùng Bảo Việt” tại Báo cáo phát triển bền vững, Bảo Việt hướng tới giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, đó là lấy Con người làm yếu tố trung tâm của sự phát triển, quyết định mọi sự thành - bại. Bảo Việt mong muốn trở thành người đồng hành đáng tin cậy, cùng khách hàng, cổ đông, đối tác và cộng đồng kiến tạo cuộc sống bình an, thịnh vượng, chắp cánh cho yêu thương và hạnh phúc thêm đong đầy.

Điểm nhấn của năm nay đến từ Báo cáo phát triển bền vững với ý tưởng hiện đại trẻ trung, giao diện thuận tiện, tương tác dễ dàng với Smart PDF xứng đáng với danh hiệu Báo cáo ứng dụng công nghệ xuất sắc (Technical Achievement Award), cùng với đó, Bảo Việt đã đạt được tiến bộ vượt bậc khi là doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đầu tiên được chứng nhận theo bộ chỉ số bền vững Dow Jones Sustainability Indices (DJSI). Đây là lần đầu tiên một doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam được ghi nhận trong bộ chỉ số này. Khi doanh nghiệp thực hiện tốt việc báo cáo toàn diện cùng các thông tin minh bạch thì lợi ích của nhà đầu tư cũng được gia tăng và đóng góp cho sự phát triển lành mạnh của thị trường Việt Nam. Chính vì vậy, Bảo Việt tiên phong áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong việc lập báo cáo như áp dụng tiêu chuẩn GRI Standards, Dow John Sustainability Indices (DJSI), TCFD (Task Force on Climate-Related Financial Disclosures), v.v... đều là những bộ tiêu chuẩn mang tới phương pháp tiếp cận toàn diện, đầy đủ và có hệ thống nhất từ trước tới nay.

II - TIN THAM KHẢO

Ra mắt cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đường lối đối ngoại, ngoại giao Việt Nam

Chiều 21/11, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp tổ chức Lễ giới thiệu cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh, những bài viết trong cuốn sách bao hàm giá trị cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện đường lối và bản sắc đối ngoại, ngoại giao của Đảng, đúc kết tư tưởng cốt lõi của đối ngoại, ngoại giao Việt Nam xuyên suốt lịch sử dân tộc mà đỉnh cao là nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, phương pháp luận trong đánh giá tình hình thế giới, nhận diện đặc điểm của thời đại, cơ hội, thách thức và ứng xử của Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Cuốn sách đã nhìn lại chiều dài lịch sử của dân tộc, đặc biệt là qua hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và hình thành trường phái đối ngoại, ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, đó là “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách, khí phách của dân tộc Việt Nam”. Đối với bạn bè quốc tế, cuốn sách sẽ là tài liệu thông tin đối ngoại có giá trị về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước - đường lối “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

Với giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao, để tuyên truyền sâu rộng nội dung cuốn sách tới đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân, đồng chí Thường trực Ban Bí thư đề nghị Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp các cơ quan tham gia biên soạn cuốn sách và các cơ quan báo chí tăng cường tuyên truyền, giới thiệu trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân cùng bạn bè quốc tế, để thông qua cuốn sách giúp bạn đọc hiểu rõ hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu xuất bản cuốn sách bằng một số tiếng nước ngoài để giới thiệu đến bạn bè quốc tế. Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên đọc, nghiên cứu, quán triệt nội dung cuốn sách và vận dụng có hiệu quả các bài học kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại, ngoại giao của Đảng, góp phần thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới. Đồng chí cũng đề nghị hệ thống giáo dục toàn quốc, nhất là các học viện, trường chính trị, trường đại học, cao đẳng cả nước xây dựng thành tài liệu học tập, nghiên cứu về công tác đối ngoại, ngoại giao trên cơ sở nội dung cuốn sách. Đồng chí Trương Thị Mai khẳng định, việc tuyên truyền, quán triệt cuốn sách này có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đưa những nội dung, tư tưởng lớn về đối ngoại, ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta đi vào cuộc sống có hiệu quả, tiếp tục xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cuốn sách Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” tuyển chọn một số bài nói, bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn, thư, điện... tiêu biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đối ngoại, ngoại giao, thể hiện tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, về những kết quả, thành tựu đạt được và đường lối đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong thời gian tới.

Nội dung cuốn sách gồm ba phần:

Phần thứ nhất: Vai trò quan trọng và đóng góp to lớn của công tác đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gồm bài viết tổng quan và 7 bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hội nghị ngoại giao, hội nghị đối ngoại toàn quốc.

Phần thứ hai: Đối ngoại Việt Nam vì độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, gồm 78 bài nói, bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn, thư, điện... của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các hoạt động và diễn đàn ngoại giao song phương, đa phương, thể hiện sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các trụ cột đối ngoại là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Phần thứ ba: Dấu ấn đối ngoại, ngoại giao, gồm 52 ý kiến của các chuyên gia, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu, bạn bè quốc tế về vai trò, đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc hình thành và phát triển đường lối đối ngoại Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.

Để lan tỏa giá trị của cuốn sách quý đến đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn bè quốc tế tiếp cận, tìm hiểu nội dung cuốn sách, cùng với việc xuất bản sách giấy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã xuất bản phiên bản điện tử cuốn sách phục vụ bạn đọc miễn phí trên trang Stbook.vn và Thuviencoso.vn.

Về đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây đựng xã hội học tập

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập

Xác định rõ tầm quan trọng của tri thức đối với sự nghiệp cách mạng, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những biện pháp cấp bách của Nhà nước công nông non trẻ; trong đó Người chỉ rõ: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên vào ngày 05/9/1945, Người đã căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cương quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về khuyến học, khuyến tài ngay từ những ngày đầu lập nước đã phát huy tác dụng to lớn trong việc nhanh chóng nâng cao dân trí phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Sau khi đất nước được hoàn toàn độc lập, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986), Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm công tác khuyến học, khuyến tài. Ngày 29/02/1996, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 122/QĐ-TTg duyệt y việc thành lập Hội Khuyến học Việt Nam. Ngày 02/10/1996, Đại hội thành lập Hội Khuyến học Việt Nam đã được long trọng tổ chức tại Hà Nội. Hội Khuyến học Việt Nam hoạt động với tôn chỉ, mục đích của một tổ chức xã hội, nhằm tập hợp các lực lượng xã hội và công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước và nước ngoài tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, khuyến học, khuyến tài, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập khu vực và quốc tế.

Tháng 12/1996, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2020; trong đó đã định hướng về một nền giáo dục mở, đây là tiền đề của một xã hội học tập: “Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy, các chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia định và các cá nhân đều có trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể”.

Tháng 4/2001, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thông qua Nghị quyết Đại hội, trong đó khẳng định: “Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.

Ngày 13/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”. Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, trong đó: Tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân để nhận thức rõ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội học tập ở nước ta; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục nước nhà. Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào khuyến học, khuyến tài, góp phần hỗ trợ các cơ sở giáo dục trong việc giảng dạy và học tập; xây dựng gia đình hiếu học; cộng đồng, dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; phát triển nhiều loại hình học tập đa dạng, phù hợp với điều kiện, nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng đại phương, đơn vị.

Ngày 10/5/2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 49-KL/TW “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”. Theo đó, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp tiếp tục quán triệt sâu rộng, thực hiện nghiêm Chỉ thị 11, đồng thời tập trung thực hiện tốt mốt số nhiệm vụ, giải pháp:

Thứ nhất, việc duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập là trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp, trước hết là người đứng đầu. Phát huy và quy định rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện Chỉ thị 11, gắn với việc đánh giá kết quả công tác hằng năm. Cấp ủy, chính quyền các cấp thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị 11. Phấn đấu mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và gia đình cán bộ, đảng viên trở thành đơn vị học tập, công dân học tập và gia đình học tập.

Thứ hai, đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Lồng ghép một số chuyên đề về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập trong chương trình giáo dục chính trị tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, trung tâm bồi dưỡng chính trị; kịp thời biểu dương gương sáng tự học, tự học thành tài để lập thân, lập nghiệp, phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và chất lượng, hiệu quả công việc, góp phần phát triển bền vững gia đình, xã hội.

Thứ ba, mỗi tổ chức cần có biện pháp phù hợp thúc đẩy việc học tập suốt đời của các thành viên, hội viên trong tổ chức để góp phần cùng với gia đình, dòng họ, thôn bản, tổ dân phố, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, viện nghiên cứu, bệnh viện, đơn vị lực lượng vũ trang... không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động khuyến học, khuyến tài, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Thực hiên xây dựng mô hình “Đơn vị học tập” trong các cơ quan, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, doanh nghiệp... và trong lực lượng vũ trang.

Thứ tư, củng cố và phát triển các tổ chức Hội Khuyến học ở các cộng đồng dân cư; phát triển tổ chức khuyến học trong các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu... và trong lực lượng vũ trang; gắn kết các tiêu chí công nhận mô hình học tập, công dân học tập, gia đình học tập, đơn vị học tập... với việc công nhận các mô hình văn hóa, với các danh hiệu thi đua. Xây dựng hệ thống giáo dục mở để bảo đảm cho mỗi công dân có nhiều cơ hội và điều kiện để học tập suốt đời.

Thứ năm, thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, chức danh phù hợp với đặc điểm của địa phương, cơ quan, đơn vị; nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, người lao động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, lao động năng động, sáng tạo trong điều kiện nền kinh tế số. Khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề và kỹ năng sống cho người lao động.

Thứ sáu, xây dựng mô hình “Đơn vị học tập” ở cấp quận, huyện, ở cơ quan, đơn vị; mô hình “Tỉnh học tập”, “Thành phố học tập”, “Công dân học tập” theo các tiêu chí được Chính phủ phê duyệt. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; bổ sung, hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với những tài năng trẻ trong học sinh, sinh viên để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành của đất nước.

Thứ bảy, mở rộng, tăng cường liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo của nước ngoài có uy tín. Khuyến khích việc học và nghiên cứu ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Vận động đội ngũ trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp với hoạt động khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.

Cụ thể hoá những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Chính phủ đã ban hành các văn bản chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập coi đây là nhiệm vụ cần thiết trước mắt và lâu dài trong chiến lược phát triển đất nước, cụ thể: Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg, ngày 18/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010”; Quyết định số 89/QĐ-TTg, ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”; Quyết định số 489/QĐ-TTg, ngày 08/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư; Chỉ thị 14/CT-TTg, ngày 25/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2023; Quyết định số 1373/QĐ-TTg, ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030”; Quyết định số 387/QĐ-TTg, ngày 25/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị học tập trong giai đoạn 2021 - 2030”; Quyết định số 667/QĐ-TTg, ngày 03/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyết Chương trình “Xây dựng mô hình công dân học tập giai đoạn 2021 - 2030”.

2. Một số khái niệm

Căn cứ các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan và các văn bản, tài liệu của Hội Khuyến học Việt Nam, một số khái niệm về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được hiểu như sau:

2.1. Khuyến học, khuyến tài

Khuyến học là khuyến khích việc học. Nói cụ thể, khuyến học là sự khuyên bảo, hướng dẫn, khích lệ, giúp đỡ của các tổ chức và cá nhân để người ta hứng khởi nghe theo, làm theo, cùng nhau thúc đẩy học tập và vận động các nguồn lực để tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người được học và tự học (học thường xuyên, học suốt đời); học chữ, học nghề, học làm người; học để biết, để làm việc, để làm người, để chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập.

Khuyến tài vừa là một hoạt động, vừa là một chính sách quốc gia, qua đó khuyến khích và tạo điều kiện để bất cứ ai cũng được học tập, bồi dưỡng nhằm phát huy tối đa năng lực tiềm tàng, trở thành người lao động sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Mục tiêu của khuyến học, khuyến tài là thúc đẩy xây dựng cả nước ta trở thành một xã hội học tập, tức một xã hội mà ai cũng muốn học và phải học, từ trẻ em đến người lớn, ở mọi ngành nghề, xuất thân, điều kiện, dân tộc, giới tính, … Hay nói cách khác, “xây dựng cả nước thành một xã hội học tập” là mục tiêu chính, còn “khuyến học, khuyến tài” là phương tiện để đạt được mục tiêu đó.

2.2. Công dân học tập

Công dân học tập là công chức, viên chức, người lao động (sau đây gọi chung là thành viên) trong cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương; cơ quan thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh; cơ quan chuyên trách của ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; cơ quan tham mưu, giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; cơ quan thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; cơ quan chuyên trách của ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị " xã hội cấp huyện (sau đây gọi chung là đơn vị), có ý thức tích cực, tự giác học tập nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, có khả năng thích ứng với môi trường sống và làm việc trong xã hội hiện đại.

Mỗi công dân học tập là người biết tự học, coi trọng việc học tập; thông qua việc học tập suốt đời để thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn - nghề nghiệp, có tinh thần đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, có ý thức lập thân, lập nghiệp nhằm cải thiện đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng, hướng tới công dân số, đóng góp tích cực cho xã hội. Tiêu chí đánh giá, công nhận Công dân học tập, gồm có:

- Năng lực tự học, học tập suốt đời: (1) kỹ năng tra cứu, đọc, cập nhật thông tin; (2) kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập theo các chương trình phục vụ yêu cầu công việc; (3) kỹ năng sắp xếp công việc hợp lý để có thời gian tham gia hoạt động văn hóa, khoa học, các hội nghị, hội thảo có nội dung cần thiết cho chuyên môn; (3) kỹ năng động viên, tạo điều kiện cho người thân trong gia đình, đồng nghiệp được học tập thường xuyên.

- Năng lực sử dụng công cụ học tập, làm việc: (1) kỹ năng tư duy biện chứng, tư duy phản biện, phân tích, đánh giá vấn đề áp dụng trong lao động, sản xuất, kinh doanh, ngiên cứu khoa học và hoạt động xã hội; (2) kỹ năng tính toán, thu xếp công việc một cách hợp lý, khoa học, có sáng kiến, đổi mới sáng tạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đóng góp tích cực cho cơ quan, doanh nghiệp; (3) kỹ năng sử dụng ngoại ngữ theo yêu cầu công việc; (4) kỹ năng sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin, thiết bị điện tử, dịch vụ trực tuyến, số hóa.

- Năng lực xây dựng và thực hiện các mối quan hệ xã hội: (1) kỹ năng thiết lập mối quan hệ thân thiện với mọi người, giải quyết xung đột, giải quyết tình huống, thích ứng an toàn; (2) kỹ năng hợp tác, chia sẻ, trong công việc, lao động và hoạt động; tôn trọng bình đẳng giới, sự đa dạng văn hoá, ngôn nữ; có ý thức bảo vệ môi trường, thực hiện xây dựng đời sống văn hóa, văn minh.

Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cụ thể hóa, định lượng các tiêu chí, chỉ số đánh giá, xếp loại phù hợp với từng cơ quan, đơn vị. Việc đánh giá, xếp loại Công dân học tập theo hình thức chấm điểm, tổng số điểm tối đa cho các tiêu chí là 100 điểm.

2.3. Đơn vị học tập

Đơn vị học tập là các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, đoàn thể mà trong đó mọi người được tạo điều kiện thuận lợi và có nhu cầu tự học, học tập thường xuyên, học cách học cùng nhau nhằm mở rộng hiểu biết trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiêu chí đánh giá, xếp loại một Đơn vị học tập, gồm có:

- Tiêu chí về các điều kiện học tập của đơn vị: (1) đơn vị có chủ trương hoặc kế hoạch, có chỉ tiêu thi đua cho các thành viên học tập thường xuyên; tạo môi trường thuận lợi để các thành viên học tập thường xuyên; (2) đơn vị quan tâm đầu tư các nguồn lực, phương tiện, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu học tập của các thành viên; (3) đơn vị có các quy định, hướng dẫn để động viên, khuyến khích, thúc đẩy các thành viên học tập; hoạt động khuyến học của đơn vị có nền nếp, hiệu quả.

- Tiêu chí về kết quả học tập trong đơn vị: (1) tỷ lệ (%) số thành viên có kế hoạch (bản đăng ký) tự học, tự bồi dưỡng hằng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (2) tỷ lệ (%) số thành viên hoàn thành các chương trình bồi dưỡng bắt buộc theo quy định; (3) tỷ lệ (%) số thành viên tuân thủ kỷ luật lao động, nội quy làm việc, có tinh thần hợp tác, đoàn kết, trao đổi; được đào tạo, bồi dưỡng về chuyển đổi số, kỹ năng số; có trình độ tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc; (4) tỷ lệ (%) số thành viên đạt các danh hiệu thi đua theo quy định của đơn vị.

- Tiêu chí về hiệu quả, tác động của việc học tập đối với đơn vị: (1) tỷ lệ (%) số thành viên trong đơn vị đáp ứng đầy đủ năng lực, phẩm chất của Công dân học tập; tích cực tham gia các cuộc vận động trong cộng đồng; (2) thành tích thi đua của đơn vị đạt từ danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến” trở lên; mức độ góp phần tạo lập môi trường chia sẻ tri thức với các đơn vị, bộ phận khác.

Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cụ thể hóa, định lượng các tiêu chí, chỉ số đánh giá, xếp loại phù hợp với từng cơ quan, đơn vị. Việc đánh giá, xếp loại Đơn vị học tập theo hình thức chấm điểm, tổng số điểm tối đa cho các tiêu chí là 100 điểm.

2.4. Xã hội học tập

Xã hội học tập là một xã hội, trong đó mọi người dân có nhu cầu học tập đều được đáp ứng và đều có nghĩa vụ học tập. Xã hội tạo cơ hội và điều kiện để công dân nào cũng được học tập. Trong xã hội học tập, ai cũng được học hành, học thường xuyên, học suốt đời, trong đó ý thức tự học, học một cách tự giác là yếu tố quyết định nhất. Do đó, học tập trở thành nhu cầu tự thân, là trách nhiệm của mỗi công dân, mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư, của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và trách nhiệm của toàn xã hội.

Xây dựng xã hội học tập chính là quá trình huy động mọi nguồn lực của xã hội để bảo đảm cơ hộỉ học tập thường xuyên, suốt đời cho mọi người; tạo điều kiện về mọi mặt như khung pháp lý, chính sách, cơ sở hạ tầng, tài liệu... và có cơ chế khuyến khích để ai cũng có thể học mọi nơi, mọi lúc; và bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa của tất cả các phương diện kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường. Đồng thời, xây dựng xã hội học tập không phải là một đích đến cố định, mà là quá trình liên tục với các giai đoạn khác nhau, đòi hỏi định hướng nhất quán, sự phấn đấu, nỗ lực bền bỉ và lâu dài của tất cả các thành phần liên quan.

3. Triển khai thực hiện Chương trình phối hợp giữa Đảng ủy Khối với Hội Khuyến học Việt Nam

Ngày 28/10/2022, Đảng ủy Khối và Hội Khuyến học Việt Nam đã ký Chương trình phối hợp số 18-CTr/ĐUK-HKHVN về đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2022 - 2026. Để triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình phối hợp đã ký, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã có Công văn số 1605-CV/ĐUK, ngày 30/6/2023 đôn đốc, chỉ đạo các đảng ủy trực thuộc Đảng ủy Khối triển khai đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc cần tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:

- Thường xuyên phổ biến, quán triệt các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, người lao động trong doanh nghiệp, đơn vị về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.

- Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo chỉ đạo tại Kết luận số 49-KL/TW, ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư.

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng, phát triển các mô hình học tập trong doanh nghiệp, đơn vị; từng bước xây dựng, phát triển mô hình “Đơn vị học tập” trong doanh nghiệp, đơn vị; xây dựng, phát triển mô hình “Công dân học tập” trong cán bộ, đảng viên, làm nòng cốt trong việc xây dựng mô hình công dân học tập trong công nhân, người lao động. Gắn kết các tiêu chí công nhận “Công dân học tập”, “Đơn vị học tập” với việc công nhận các mô hình văn hóa trong doanh nghiệp, với các danh hiệu thi đua.

- Chú trọng lãnh đạo triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao về nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, đảng viên, người lao động tự học, tự nghiên cứu, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý, kỹ năng nghề nghiệp; tổ chức nghiêm túc chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên, người lao động theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp, đơn vị.

- Lãnh đạo xây dựng, rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách; tạo điều kiện thuận lợi về môi trường, nguồn lực, kinh phí nhằm thúc đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng công dân học tập, đơn vị học tập trong mỗi doanh nghiệp, đơn vị; kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong học tập, có sáng kiến khoa học, kỹ thuật và các sản phẩm được áp dụng trong thực tiễn có hiệu quả.

- Đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền; lồng ghép một số nội dung về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong các chương trình bồi dưỡng, giáo dục, các hoạt động về nguồn, an sinh xã hội, hoạt động ngoại khóa, hoạt động đoàn thể phù hợp. Thường xuyên, tích cực đưa tin, bài tuyên truyền về hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng đơn vị học tập, tham gia xây dựng xã hội học tập trên trang tin điện tử của doanh nghiệp, đơn vị, Tạp chí điện tử Đảng ủy Khối, Cổng Thông tin điện tử Hội Khuyến học Việt Nam.

Định hướng cơ cấu lại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

Đề án cơ cấu lại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) giai đoạn đến hết năm 2025 được phê duyệt bởi Quyết định số 1243/QĐ-TTg, ngày 25/10/2023 của Thủ tướng Chính phủ, nêu rõ:

Về ngành nghề, PVN tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh chính: Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí; công nghiệp khí; công nghiệp điện, công nghiệp điện tái tạo và công nghiệp năng lượng mới; chế biến dầu khí, tồn trữ và phân phối các sản phẩm dầu khí; dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao. PVN có các ngành, nghề kinh doanh theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của PVN và các ngành, nghề kinh doanh khác theo phê duyệt của cấp có thẩm quyền.

Đổi mới quản trị doanh nghiệp, tập trung đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại về quản trị doanh nghiệp, tập trung vào các nội dung: Hoàn thiện thể chế quản lý; kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý, điều hành; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính, kế toán; quản lý sử dụng lao động hiệu quả, cải cách cơ chế tiền lương; phát triển và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật mới nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động trong toàn Tập đoàn; tăng cường công tác dự báo, quản trị rủi ro, công nghệ thông tin và chuyển đổi số; tăng cường công tác quản lý các đơn vị của PVN hoạt động tại nước ngoài; tăng cường công tác quản lý dự án đầu tư, đảm bảo tiến độ và hiệu quả đầu tư; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; phòng chống tham nhũng, lãng phí.

Áp dụng thông lệ quốc tế trong việc đổi mới quản trị doanh nghiệp, tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để hoàn thiện thể chế quản lý, cơ chế, chính sách theo hướng tăng tính chủ động cho PVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế; phối hợp với các bộ, ngành để trình cấp thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn Luật dầu khí, về sửa đổi/ban hành Điều lệ tổ chức hoạt động phù hợp theo quy định, các văn bản pháp luật có liên quan... Đón đầu và ứng dụng xu hướng chuyển đổi số, chuyển dịch năng lượng trong công tác quản trị, điều hành; triển khai thành công công tác chuyển đổi số (ERP) của PVN…

Xây dựng phương án cơ cấu lại tài chính, vốn, tài sản của doanh nghiệp, tăng cường quản trị dòng tiền, vốn bằng tiền đảm bảo an toàn và hiệu quả sử dụng vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thường xuyên cập nhật tình hình cân đối dòng tiền, nguồn vốn trong trung hạn và dài hạn để đưa ra các dự báo, biện pháp ứng phó kịp thời (trong đó có khoản tiền PVN đã phát sinh và dự kiến sẽ tiếp tục phát sinh theo nghĩa vụ bảo lãnh hoàn thành của PVN đối với NSRP tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp của PVN tại NSRP, không được làm phát sinh thêm nghĩa vụ của Chính phủ theo đúng chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ tại văn bản số 2359/VPCP-KTTH, ngày 13/7/2022 của Văn phòng Chính phủ).

Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu, thúc đẩy công tác thanh toán nợ, chủ động áp dụng, tích cực tìm kiếm các biện pháp phù hợp, hiệu quả để khẩn trương thu hồi các khoản công nợ đến hạn, tìm nguyên nhân khoản nợ quá hạn, nợ tồn đọng lâu ngày (nếu có), nợ không có khả năng thu hồi và có biện pháp xử lý, bao gồm khoản công nợ cung cấp dịch vụ cho NSRP. Cơ cấu lại nhân sự, tổ chức bộ máy quản lý, tiếp tục rà soát, đánh giá và sắp xếp lại nhân sự trong bộ máy điều hành để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu và nâng cao hiệu quả công việc; thường xuyên đánh giá và có các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bố trí, sắp xếp, lao động tại cơ quan Tập đoàn phù hợp với yêu cầu công việc trong tình hình mới. Chỉ đạo các đơn vị thành viên cơ cấu lại nhân sự theo hướng tinh gọn, phù hợp chiến lược phát triển và yêu cầu sản xuất kinh doanh; có cơ chế tiền lương phù hợp với hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động.

Hoàn thiện bộ máy quản lý điều hành tại công ty mẹ và tại các đơn vị thành viên để có cấu trúc và quy mô phù hợp với đặc điểm tình hình, nhu cầu công việc, đáp ứng tốt nhất yêu cầu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và Chiến lược phát triển của PVN. Tập trung các đầu mối, giảm trung gian trong việc xử lý, giải quyết công việc cũng như ra quyết định. Phân rõ trách nhiệm của từng bộ phận, tránh chồng chéo trong công việc của các Ban/Văn phòng. Xác định đặt mục tiêu hiệu quả trong xử lý, giải quyết công việc lên hàng đầu. Đầu tư đổi mới công nghệ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bảo vệ môi trường; lộ trình cải tiến công nghệ để đổi mới công nghệ từng phần, từng giai đoạn một cách hợp lý, phù hợp với năng lực, định hướng phát triển của doanh nghiệp, thường xuyên thực hiện rà soát, đánh giá để đổi mới, cải tiến công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng tốt hơn yêu cầu sản xuất kinh doanh và thị trường hoặc để tuân thủ các tiêu chuẩn yêu cầu (như về môi trường...) theo quy định của pháp luật…

Lộ trình thực hiện: Tập trung tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh để đến hết năm 2025 giải quyết các vướng mắc, tồn tại (nếu có) của PVN và các đơn vị thành viên; đẩy mạnh công tác thoái vốn. Đến hết năm 2025: Hầu hết các doanh nghiệp thành viên là công ty cổ phần, mô hình tổ chức tinh gọn, có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả, có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực, đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.

Giải pháp thực hiện định hướng phát triển giao thông đường sắt

Nghị quyết số 178/NQ-CP ngày 31/10/2023 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/2/2023 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nêu các mục tiêu, giải pháp thực hiện như sau:

Các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, hoàn thành các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021 - 2025), quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành đường sắt, quy hoạch chung xây dựng đô thị để cụ thể hóa Kết luận số 49-KL/TW và quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phấn đấu hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Triển khai công tác lập đề xuất chủ trương đầu tư các tuyến đường sắt xây dựng mới, đường sắt đô thị có lộ trình đầu tư trước năm 2030. Tiếp tục triển khai, hoàn thành các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt quốc gia hiện có đã xác định nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2021 - 2025.

Đến năm 2030, phấn đấu khởi công dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam các đoạn ưu tiên; khởi công một số tuyến đường sắt kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế. Phấn đấu xây dựng, đưa vào khai thác khoảng 50% tổng chiều dài đường sắt đô thị được quy hoạch tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2045, hoàn thành đưa vào khai thác toàn tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.

Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Tăng cường tuyên truyền, quán triệt tạo sự thống nhất nhận thức cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vận tải đường sắt đối với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, môi trường và đối ngoại. Các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện Kết luận số 49-KL/TW về phát triển giao thông vận tải đường sắt phù hợp với thực tiễn của ngành, địa phương.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành đường sắt (sửa đổi Luật Đường sắt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan) theo hướng đẩy mạnh đầu tư phát triển; đa dạng hóa, huy động tối đa nguồn lực đầu tư phát triển đường sắt; tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương để đầu tư, phát triển công nghiệp, nguồn nhân lực cho đường sắt. Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư để tạo môi trường thuận lợi, thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển đường sắt; nhượng quyền khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt. Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền cho các địa phương để đẩy nhanh tiến độ, rút ngắn thủ tục đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước theo hướng các địa phương được sử dụng ngân sách địa phương tham gia đầu tư phát triển đường sắt quốc gia qua địa bàn.

Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển công nghiệp đường sắt, đầu tư phát triển công nghiệp đường sắt. Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, chuyển đổi số trong đầu tư, khai thác và bảo trì kết cấu hạ tầng, công nghiệp và dịch vụ đường sắt; ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước hàng năm để phát triển khoa học, công nghệ đường sắt. Rà soát bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về chuyên ngành đường sắt, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia xây dựng, quản lý đường sắt.

Rà soát, điều chỉnh quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, đồng bộ với các quy hoạch ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải và các quy hoạch ngành khác có liên quan; triển khai lập quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành. Lập, rà soát, điều chỉnh quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh bảo đảm liên kết, đồng bộ với quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để tạo không gian phát triển, gắn kết các tuyến đường sắt với các hành lang kinh tế, các trung tâm kinh tế, đầu mối vận tải trong nước, các khu kinh tế, khu công nghiệp, trung tâm logistics lớn, trung tâm bưu chính. Lập, rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy hoạch hệ thống du lịch gắn kết với quy hoạch mạng lưới đường sắt, liên kết các chuỗi đô thị bằng hệ thống đường sắt hiện đại; phát triển mạng lưới đường sắt trong quy hoạch vùng nhằm kết nối vùng, liên vùng và các địa phương. Lập, rà soát, điều chỉnh quy hoạch chung các thành phố trực thuộc Trung ương, trực thuộc tỉnh để hình thành quy hoạch phát triển hệ thống đường sắt đô thị, quản lý không gian ngầm, đồng bộ hạ tầng kỹ thuật đô thị với hạ tầng đường sắt; phát triển các đô thị nén và khuyến khích đầu tư công trình kinh doanh dịch vụ thương mại, văn phòng xung quanh các khu ga.

Xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước trung hạn và hàng năm ưu tiên đầu tư, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt, bảo đảm tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn nhà nước hợp lý cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt để thực hiện các mục tiêu quy hoạch đến năm 2030 (nhất là mục tiêu triển khai đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam). Ưu tiên bố trí nguồn vốn tăng thu, tiết kiệm chi để đầu tư kết cấu hạ tầng đường sắt. Xây dựng phương án hợp tác với nhà tài trợ nước ngoài để huy động nguồn vốn vay ưu đãi, phát hành trái phiếu trong nước, quốc tế để đầu tư các dự án đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị. Kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh đường sắt, dịch vụ hỗ trợ vận tải; tham gia đầu tư, kinh doanh phương tiện vận tải, các công trình hỗ trợ cho hoạt động vận tải (kho, bãi hàng, phương tiện xếp dỡ…).

Đề xuất Chính phủ, Quốc hội cho phép thí điểm áp dụng một số quy định đặc thù (tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức PPP, cho phép áp dụng loại hợp đồng BT, ưu đãi, bảo đảm đầu tư chia sẻ rủi ro phù hợp) để thu hút nhà đầu tư, huy động nguồn lực đầu tư từng dự án cụ thể. Ưu tiên bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt đô thị, đường sắt vùng. Ưu tiên dành quỹ đất thích đáng tại các khu vực quanh các khu ga đường sắt lớn, ga đường sắt tốc độ cao, ga đường sắt trong đô thị để phát triển các đô thị, khu chức năng (mô hình TOD) và sử dụng nguồn thu từ phát triển đô thị để tạo nguồn lực tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị.

IV - VĂN BẢN, QUYẾT ĐỊNH MỚI

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán

Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị ban hành Quy định 131-QĐ/TW (Quy định 131) về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán. Đối tượng áp dụng là tổ chức (gồm cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị), cá nhân có thẩm quyền trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán; tổ chức, cá nhân được kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, bị thi hành kỷ luật đảng.

Những hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán, là: Hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ, mua chuộc người có trách nhiệm, chức vụ, quyền hạn hoặc người có liên quan nhằm giảm nhẹ, trốn tránh trách nhiệm cho đối tượng vi phạm. Cung cấp, tiết lộ thông tin, tài liệu, hồ sơ của đối tượng kiểm tra cho tổ chức và cá nhân không có thẩm quyền, trách nhiệm, nhất là thông tin, tài liệu, hồ sơ đang trong quá trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng hoặc thanh tra, kiểm toán. Nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất, tham gia hoạt động vui chơi, giải trí của đối tượng kiểm tra hoặc người có liên quan đến đối tượng kiểm tra. Lợi dụng các mối quan hệ thân quen hoặc sử dụng lợi thế, vị trí công tác, uy tín của mình, người khác để tác động, tranh thủ, gây sức ép với đối tượng kiểm tra hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan nhằm trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

Lợi dụng việc nắm được thông tin nội bộ hoặc thông tin bất lợi của tổ chức, cá nhân để đặt điều kiện, gây sức ép đối với đối tượng kiểm tra, người có thẩm quyền, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán nhằm trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Để người có quan hệ gia đình lợi dụng ảnh hưởng chức vụ, quyền hạn của mình nhằm thao túng, can thiệp vào việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán. Đưa ý đồ cá nhân, đề ra tiêu chí, điều kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự thật để có lợi hoặc gây bất lợi cho đối tượng kiểm tra. Xác nhận, nhận xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị không đúng sự thật hoặc làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ, bản chất vụ việc, vi phạm của đối tượng kiểm tra.

Thoả thuận, đặt điều kiện với đối tượng kiểm tra hoặc người có liên quan đến đối tượng; thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định để làm thay đổi, sai lệch kết quả, kết luận kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán. Không kiến nghị, đề xuất chuyển đến cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm; không kiến nghị hoặc chỉ đạo, xử lý thu hồi vật chất, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền đối với các vi phạm khi tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán. Chỉ đạo hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, chưa được phép công bố hoặc không thực hiện đúng kết luận, kiến nghị về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán.

Gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi không đúng quy định với đối tượng kiểm tra; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh không đúng mục đích. Bao che, tiếp tay, trì hoãn hoặc không kết luận, không xử lý hoặc kết luận, xử lý không đúng nội dung, tính chất, mức độ vi phạm hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán vượt thẩm quyền; không đúng quy trình nghiệp vụ, phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian theo quy định. Cản trở, can thiệp trái quy định vào việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán. Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, sách nhiễu, gây khó khăn, có thái độ áp đặt, thiếu tôn trọng, không đúng quy định của ngành, can thiệp trái quy định vào hoạt động của đối tượng kiểm tra.

Không xử lý hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định khi nhận được thông tin, đơn, thư phản ánh, tố cáo đối tượng kiểm tra. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng uy tín, ảnh hưởng của bản thân và gia đình để gợi ý, tác động, gây áp lực đối với người có thẩm quyền quyết định hoặc tham mưu về các kết luận kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán không đúng bản chất sự việc. Tác động đến người có thẩm quyền nhằm giúp cho đối tượng kiểm tra có được kết quả, quyền lợi không chính đáng ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ đối tượng kiểm tra thực hiện các hành vi nhằm trốn tránh, giảm nhẹ trách nhiệm.

Không kịp thời thay đổi thành viên đoàn kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán khi có căn cứ xác định thành viên không vô tư, khách quan trong công tác; không kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của đoàn. Không kịp thời kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán đối với những tổ chức, cơ quan, đơn vị và cá nhân có dấu hiệu vi phạm, đơn, thư phản ánh, tố cáo đã được xác định là có cơ sở. Các hành vi tham nhũng, tiêu cực khác theo quy định của Đảng và pháp luật.

Cấp ủy có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghiêm quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra, kiểm toán. Chỉ đạo xây dựng, phê duyệt kế hoạch và tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát theo kế hoạch; phối hợp chặt chẽ giữa đoàn kiểm tra, giám sát của cấp ủy với ủy ban kiểm tra cấp trên trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng thuộc thẩm quyền quản lý; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy và ủy ban kiểm tra của cấp ủy thực hiện nghiêm quy định của Đảng, chỉ đạo của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên, kịp thời chấn chỉnh hạn chế, khuyết điểm trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chủ động phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.

Ủy ban kiểm tra các cấp có trách nhiệm chỉ đạo cụ thể hoá hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Quy định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên của tổ chức mình và cấp dưới thực hiện đầy đủ quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật. Kịp thời chấn chỉnh hạn chế, khuyết điểm, xử lý vi phạm theo thẩm quyền. Không bố trí theo dõi địa bàn, lĩnh vực hoặc tham gia, chỉ đạo các đoàn kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đối với người có quan hệ gia đình hoặc có quyền, lợi ích liên quan với đối tượng kiểm tra. Điều động hoặc chuyển đổi vị trí công tác đối với người đã phụ trách, theo dõi một địa bàn, lĩnh vực từ đủ 2 năm đến 5 năm theo đặc thù của ngành, lĩnh vực hoặc khi thấy cần thiết. Bảo vệ, khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân phát hiện, phản ánh, tố cáo vi phạm trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.

Chỉ thị số 25-CT/TW về tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của y tế cơ sở trong tình hình mới

Ngày 25/10/2023, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của y tế cơ sở trong tình hình mới.

Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương yêu cầu các đảng ủy trực thuộc lãnh đạo, chỉ đạo các bộ phận liên quan, tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và người lao động phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe, phổ biến kiến thức để nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi trong bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe. Đẩy mạnh phong trào rèn luyện, nâng cao sức khỏe.

Nội dung Chỉ thị 25-CT/TW xem ti đây.

Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Ngày 04/5/2023, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Chỉ thị yêu cầu đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước; là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài; khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo việc làm bền vững cho người lao động và thế hệ trẻ. Đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người học, gia đình và xã hội về ý nghĩa của việc học nghề, kỹ năng nghề trong tiếp cận việc làm, nâng cao thu nhập và cơ hội học tập suốt đời.

Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ. Nội dung Chỉ thị 21-CT/TW xem ti đây.

Hướng dẫn thực hiện công tác lý luận chính trị năm 2024

Ban Tuyên giáo Trung ương vừa ban hành Hướng dẫn số 121 -HD/BTGTW, ngày 6/11/2023, hướng dẫn thực hiện công tác lý luận chính trị năm 2024.

Theo đó, về tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai các nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XIII của Đảng, nghị quyết của đảng bộ các cấp ở địa phương, Ban tuyên giáo các cấp chủ động tham mưu cấp ủy xây dựng kế hoạch tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền kịp thời, sâu rộng những nội dung của Hội nghị lần thứ chín, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (có hướng dẫn cụ thể), các nghị quyết của ban chấp hành đảng bộ các cấp ở địa phương, cơ quan, đơn vị; chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện chương trình hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ các cấp. Đồng thời, tham mưu cấp ủy xây dựng kế hoạch sơ kết, tổng kết, kiểm tra, giám sát việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đảng bộ địa phương, đơn vị.

Về thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cấp ủy các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của Trung ương, ngành, địa phương.

Ban Tuyên giáo cùng cấp tham mưu cấp ủy xây dựng nội dung sinh hoạt chuyên đề năm 2024 trên cơ sở cụ thể hóa nội dung chuyên đề toàn khóa “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; tập trung vào nội dung phát triển kinh tế, đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam… theo tinh thần Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; xây dựng Kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2024 bám sát vào chủ đề và nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị. Lựa chọn từ 01 đến 02 nhiệm vụ trọng tâm, đột phá để triển khai thực hiện; xây dựng Hướng dẫn triển khai thực hiện “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” làm cơ sở để cán bộ, đảng viên phấn đấu, rèn luyện…

Về công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; Hướng dẫn số 121 – HD/BTGTW nêu rõ, tiếp tục tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc hơn nữa nội dung tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo Hướng dẫn số 47-HD/BTGTW, ngày 04/4/2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương; tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng…

Cùng với đó, tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 (có kế hoạch riêng). Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25/4/2015 của Bộ Chính trị khóa XI về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước; Hướng dẫn số 55-HD/BTGTW, ngày 21/12/2017 về tổ chức trao đổi, đối thoại với các cá nhân có nhận thức khác với chủ trương, đường lối của Đảng; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 08/02/2018 của Ban Bí thư về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới…

Toàn văn Hướng dẫn số 121 - HD/BTGTW, ngày 6/11/2023 được tải về từ bài viết tương ứng trong mục Nghiệp vụ trên App mobile Thông tin tuyên giáo.

Từ ngày 01/12/2023, giao dịch từ 400 triệu đồng phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước

Theo Quyết định 11/2023/QĐ-TTg ngày 27/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 01/12, các giao dịch có giá trị từ 400 triệu đồng trở lên phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Quyết định này quy định mức giao dịch có giá trị lớn từ 400 triệu đồng trở lên phải báo cáo NHNN Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Phòng, chống rửa tiền. Hiện quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo với Ngân hàng Nhà nước là 300 triệu đồng. Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan quy định tại khoản 1, 2 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022, bao gồm:

Tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động: Nhận tiền gửi; cho vay; cho thuê tài chính; dịch vụ thanh toán; dịch vụ trung gian thanh toán; phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ ngân hàng, lệnh chuyển tiền; bảo lãnh ngân hàng, cam kết tài chính; Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ; môi giới chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán; quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; đổi tiền.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành, nghề phi tài chính có liên quan theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động: Kinh doanh trò chơi có thưởng, bao gồm trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng Internet; casino; xổ số; đặt cược. Kinh doanh bất động sản, trừ hoạt động cho thuê, cho thuê lại bất động sản và dịch vụ tư vấn bất động sản; kinh doanh kim khí quý, đá quý; kinh doanh dịch vụ kế toán; cung cấp dịch vụ công chứng; cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý./.

BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG

.
.
.
.