Bài dự thi giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2021
CƠ CHẾ BẢO VỆ, KHUYẾN KHÍCH ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM, DÁM CHỊU TRÁCH NHIỆM TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá là việc cán bộ mạnh dạn đề xuất ý tưởng, quyết đoán trong hành động; dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, lạc hậu, những điều không còn phù hợp; khơi thông điểm nghẽn để bứt phá, giải quyết những vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển, có những quy định, chính sách đôi khi chưa bao trùm hết, chưa theo kịp thực tiễn cuộc sống, thậm chí được coi là lạc hậu, gây kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khuyến khích, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. |
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm khuyến khích tư duy đổi mới, sáng tạo trong nhân dân; đồng thời, động viên, khích lệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung để tạo sức mạnh lớn, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng vẻ vang 91 năm qua của Đảng và nhân dân ta mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, gắn liền với vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng qua từng thời kỳ. Đảng ta tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy vai trò lãnh đạo tập thể là đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu, từ hoạch định chủ trương, đường lối đến tổ chức thực hiện, từ phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo đến nêu gương về đạo đức, phong cách, lối sống. Tiêu biểu nhất là thiên tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh với sự vận dụng, bổ sung phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, định hình lý luận cách mạng không chỉ soi sáng, dẫn dắt, làm nên thắng lợi cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, mà còn tiếp tục trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Thực tế cho thấy, càng ở vào những thời điểm có tính bước ngoặt của sự nghiệp cách mạng, càng thấy rõ dấu ấn nổi bật của người đứng đầu trong nắm bắt thời cơ, bắt nhịp tình thế, kịp thời đề xuất trước tập thể những quyết sách sáng suốt, táo bạo để tháo gỡ rào cản, tận dụng cơ hội, đẩy lùi thách thức, tạo động lực đưa đất nước phát triển đột phá. Không có những đổi mới sáng tạo ấy, không có những con người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung thì không thể có những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và những thắng lợi to lớn, mang ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, 1986 tại Hà Nội.
Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang đổi mới mạnh mẽ, phát triển và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng như tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư càng đặt ra yêu cầu và đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải không ngừng đổi mới, sáng tạo để giải quyết, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc, phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, để thúc đẩy tư duy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá của cán bộ, đảng viên, người lao động trong toàn xã hội nói chung và trong doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp nhà nước nói riêng) thì cần phải xây dựng, quy định và hướng dẫn cụ thể về cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, dám đột phá, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong đó có đối tượng là cán bộ làm trong doanh nghiệp nhà nước, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, xứng đáng là công cụ của Nhà nước trong việc thực hiện định hướng, điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô mang tính chiến lược trong từng thời kỳ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung được Đảng và Nhà nước ta định hướng và có chủ trương từ lâu, đã có nhiều hội thảo, hội nghị với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành để bàn luận, phân tích, đánh giá; có nhiều bài viết của các Giáo sư, Tiến sĩ, chuyên gia đã và đang công tác tại các cơ quan Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học tổ chức, cán bộ - Ban Tổ chức Trung ương, đại biểu Quốc hội, Hội luật gia,… Ngày 22/09/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, qua đó khẳng định, đây là vấn đề ngày càng được Đảng ta quan tâm, giúp mỗi cán bộ đảng viên có nhiều hơn cơ hội để cống hiến cho nhân dân, cho đất nước.
Quá trình triển khai các ý tưởng đổi mới, sáng tạo ở bất cứ thời kỳ nào cũng gặp những khó khăn, vướng mắc, rào cản. Bởi vì đó là quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, khắc phục từng bước những yếu kém và khuyết điểm, tư tưởng giáo điều, bảo thủ hoặc cực đoan, duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm để đi đến cái đúng, cái chân lý. Trong quá trình thực hiện, có những trường hợp thành công, nhưng cũng không ít trường hợp chưa thành công, thậm chí thất bại, có cán bộ phải trả giá bằng sinh mệnh chính trị, bị xử lý kỷ luật, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Những tấm gương tiêu biểu về tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Thành tựu đất nước sau hơn 35 năm đổi mới mang đậm dấu ấn của lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, có khả năng tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Họ là biểu tượng sinh động, tiêu biểu của tầm cao trí tuệ, đức hy sinh, tinh thần dấn thân vì lợi ích chung; những đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá của họ dù thành công hay chưa thành công đều mang lại những bài học có giá trị cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Những tấm gương tiêu biểu trong giai đoạn khởi đầu tìm tòi, khởi xướng, xác lập nền móng của sự nghiệp đổi mới, những dấu ấn vượt thời gian có thể kể đến như sau:
Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh là người khởi xướng công cuộc đổi mới, cùng tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác lập nên mô hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý luận cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đại hội VI.
Vào thời điểm trước Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), khi đối diện với những khó khăn chồng chất phát sinh từ cơ chế bao cấp, từ thực tiễn các địa phương, cơ quan, đơn vị đã xuất hiện nhiều cấp ủy, người đứng đầu, dũng cảm đột phá xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tìm tòi những mô hình, cách quản lý kinh tế mới. Có thể kể đến là: (i) Tỉnh ủy An Giang gắn với tên tuổi Chủ tịch Ủy ban nhân dân, rồi Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Hơn trong bán giá vật tư và mua lúa của nông dân theo giá thị trường; (ii) Tỉnh ủy Long An gắn với vai trò Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính trong xóa bỏ tem phiếu, áp dụng cơ chế một giá theo thị trường; (iii) Thành phố Hồ Chí Minh gắn với vai trò Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP Võ Văn Kiệt luôn sâu sát thực tiễn, lắng nghe người dân và doanh nghiệp, đã có nhiều quyết định đổi mới, sáng tạo, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế các xí nghiệp quốc doanh theo hướng xóa bao cấp, chuyển sang tự chủ hạch toán kinh doanh, góp phần cung cấp luận cứ thực tiễn cho đổi mới toàn diện đất nước.
Đặc biệt là đồng chí Trường Chinh, khi được bầu làm Tổng Bí thư vào tháng 07/1986, trong điều kiện kinh tế - xã hội khủng hoảng trầm trọng, bằng tư duy lý luận sắc sảo và nhạy bén, với kinh nghiệm thực tiễn sống động của cơ sở và địa phương, đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, mạnh dạn thoát ra khỏi những quan niệm và nếp nghĩ cũ kỹ, chủ động đề xuất Bộ Chính trị thảo luận, xem xét lại một số vấn đề trong đường lối kinh tế của Đảng. Đồng chí là người đã khởi xướng công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Những ý kiến của đồng chí Trường Chinh đã được sự nhất trí rất cao của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương. Có thể nói, đồng chí Trường Chinh đã cùng tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác lập nên mô hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý luận cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đại hội VI (tháng 12/1986). Công cuộc đổi mới trong giai đoạn khởi đầu đầy thử thách, gian nan khi cái mới bắt đầu manh nha còn yếu ớt, cái cũ còn sức ỳ rất lớn, luôn cần đến những nhà lãnh đạo quyết liệt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn, thách thức.
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người đã đẩy mạnh việc thực thi những tư tưởng lớn của Đại hội VI và trên một số lĩnh vực có bước tiến đổi mới xa hơn; tuyên chiến với những tư duy cũ kỹ, lạc hậu còn ảnh hưởng rất nặng nề trong bộ máy và con người với “những việc cần làm ngay”; mạnh dạn đột phá vào những quan điểm kinh tế mà đến những năm (1987-1988) còn đang tranh luận, như khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động hay “khoán hộ”; chuyển đổi sang ngân hàng một cấp hay ngân hàng hai cấp; cho kinh doanh vàng bạc hay không; sử dụng khái niệm cơ chế thị trường, xem thị trường vừa là một căn cứ, vừa là một đối tượng của kế hoạch hóa...
Đồng chí Võ Văn Kiệt, khi ở các cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Thủ tướng Chính phủ luôn thể hiện là người “dám nghĩ, dám quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám tự phê bình”, gắn liền với các quyết định xóa bỏ tình trạng “ngăn sông cấm chợ”, thu mua thóc của nông dân theo giá thị trường, thực hiện dự án khai thác vùng Đồng Tháp Mười, xây dựng kênh thoát lũ ra biển Tây, ngọt hóa vùng Tứ giác Long Xuyên,… Không ít vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, khó khăn từ nhiều phía, nhưng đồng chí đứng ra chịu trách nhiệm, kiên quyết tổ chức triển khai, hạ quyết tâm làm bằng được, nếu thấy đó là vấn đề ích nước, lợi dân. Đặc biệt là dự án xây dựng đường dây tải điện 500 KV (năm 1992) đã gặp không ít rào cản, với những nghi ngờ dự án thất bại, gây lãng phí ngân sách. Tuy nhiên, đồng chí Võ Văn Kiệt với tầm nhìn xa, dám chịu trách nhiệm đã từng nói “Nếu đóng điện không thành công thì xin từ chức” và sau đó đường dây tải điện 500 KV, công trình lịch sử ấy thành công góp phần quan trọng để Việt Nam thực hiện mục tiêu hiện đại hóa công nghiệp hóa.... Đồng chí cũng là người sớm mở đầu cho cả quá trình cải cách hành chính ở nước ta khi giảm số bộ và các cơ quan ngang bộ từ 36 xuống còn 27; giảm số phó thủ tướng từ 10 người xuống còn 3 người.
Đồng chí Phan Văn Khải, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ trong nhiệm kỳ của mình, đã chỉ đạo ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật quan trọng, có ý nghĩa đột phá về thể chế kinh tế, như Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật Đất đai năm 2003, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003, Luật Thương mại năm 2005,... góp phần giải phóng sức sản xuất, khai thông các nguồn lực, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển và hội nhập quốc tế.
Đồng chí Kim Ngọc, Bí Thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết (năm 1966) cho phép nông dân tự cấy cày trên đất đai của hợp tác xã và đến cuối vụ được phép giữ lại sản phẩm vượt định mức. Nông dân phấn chấn vì năng suất lúa tăng nhưng tại thời điểm đó, không phải tư duy và quyết định áp dụng khoán của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc - đã được chấp thuận một cách dễ dàng, thậm chí ông còn bị kiểm điểm. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh người dân được lợi khi áp dụng khoán, cán bộ không tư lợi. Do vậy, cơ chế này trở thành viên gạch đầu tiên để Đảng từng bước hoạch định chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, khoán 100, rồi khoán 10, trong cả nước.
Thời gian gần đây tiếp tục xuất hiện nhiều cán bộ tận tụy, tâm huyết trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, sâu sát thực tế, đi đầu trong đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, dám đối mặt và giải quyết những vấn đề tồn đọng, phức tạp do lịch sử để lại. Những ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cá nhân người lãnh đạo đã trở thành ý tưởng của tập thể lãnh đạo, được hiện thực hóa thành những mô hình mới, cách làm hay trong cả nước. Có thể nhắc tới như sau:
Nhiệm kỳ 2015-2020, trong khi nhiều địa phương vẫn còn loanh quanh tháo gỡ những nút thắt về hạ tầng trong ngắn hạn, Hải Phòng là một trong số ít các địa phương mạnh dạn đẩy mạnh đầu tư chỉ bằng nguồn ngân sách có được từ tăng thu, tiết kiệm chi. Với tầm nhìn xa, dám nghĩ dám làm, Hải Phòng đã đầu tư tới gần 44.000 tỷ đồng vào hạ tầng giao thông, xây dựng 46 cây cầu và hàng trăm km đường và trở thành một điểm đến cho những nhà đầu tư lớn với số vốn hàng tỷ USD.
Mô hình “Dân tin - Đảng cử” - bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Trước nhiệm kỳ đại hội chi bộ và nhiệm kỳ trưởng thôn, bản, khu phố giai đoạn 2017 - 2020, tỉnh Quảng Ninh có 1.565 thôn, bản, khu phố, trong đó tỷ lệ trưởng thôn chưa là đảng viên cao (chiếm 68,2%); bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, khu phố chỉ chiếm 21,5%; sau khi thực hiện mô hình này 100% số trưởng thôn, bản, khu phố là đảng viên; 1562/1565 (99,8%) bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố. Nhờ có mô hình này, hiệu quả, vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo nhiệm vụ của chi bộ đối với hoạt động ở thôn, bản, khu phố được nâng lên rõ rệt, gắn kết nhiệm vụ của bí thư chi bộ và trưởng thôn; giảm các khâu trung gian, tránh sự chồng chéo, đùn đẩy, né tránh hoặc có khoảng trống trong sự lãnh đạo của chi bộ và điều hành của trưởng thôn. Cơ cấu bộ máy ở các thôn, bản, khu phố gọn nhẹ, tạo sự thống nhất, đồng thuận ngay từ việc ban hành nghị quyết đến chỉ đạo thực hiện. Bí thư chi bộ, chi ủy và ban lãnh đạo thôn, khu phố nắm toàn diện tình hình chung, tiếp thu kịp thời sự chỉ đạo của cấp trên, giải quyết nhanh những vấn đề phát sinh tại cơ sở, qua đó tiết kiệm thời gian hội họp, phát huy tối đa năng lực của người đứng đầu thôn, khu phố, khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.
Chương trình “5 không, 3 có” của thành phố Đà Nẵng, với “5 không” là: không có hộ đói, không có người lang thang xin ăn, không có người mù chữ, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng, không giết người cướp của; “3 có” là: có việc làm, có nhà, có cuộc sống văn minh đô thị. Thực tiễn cho thấy, thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành hầu hết các tiêu chí của Chương trình “5 không, 3 có”, khi gần như không có người ăn xin, không còn tình trạng mù chữ, nhiều gia đình giàu lên vì kinh doanh du lịch, chất lượng cuộc sống của người dân Đà Nẵng không ngừng được nâng cao,... Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng còn triển khai quyết liệt, sáng tạo và bước đầu đạt được thành công trong xây dựng kết cấu hạ tầng, quy hoạch đô thị khang trang, sạch đẹp; mô hình bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt ưu tiên cho những người yếu thế, như xây dựng Bệnh viện chữa ung thư, Bệnh viện Phụ sản, thành lập quỹ vay vốn cho người hoàn lương, quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo,...
Cách làm đổi mới, sáng tạo của thành phố Hà Nội với việc triển khai Đề án số 04-ĐA/TU về “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020” trong đó tập trung vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đối tượng cán bộ nguồn kế cận của Thành phố, theo các tiêu chuẩn, chức danh chuyên sâu, theo vị trí việc làm đang đảm nhận hoặc vị trí chức danh quy hoạch. Trong công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước theo Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư, Hà Nội cũng là một địa phương đi đầu, với nhiều giải pháp đột phá, phù hợp với quan điểm lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân và thực tiễn phát triển kinh tế của Thủ đô. Tiêu biểu là việc cử đảng viên có trình độ, năng lực, am hiểu tình hình doanh nghiệp đang sinh hoạt tại các phòng, ban, chuyên môn của đơn vị xuống sinh hoạt Đảng cùng các đảng viên của doanh nghiệp để đủ điều kiện thành lập tổ chức đảng theo quy định Điều lệ Đảng và giúp các tổ chức đảng hoạt động, phát triển đảng viên. Thông qua đó, chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được nâng lên rõ rệt, đảng viên trong doanh nghiệp từng bước khẳng định vai trò nòng cốt, nhân tố tiêu biểu trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể đã góp phần cùng các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững.
Trong đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4, Thành phố Hồ Chí Minh chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề. Quận 7 với khoảng 100.000 dân thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt. Quận ủy Quận 7 và đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy đã quyết định thực hiện mô hình chống dịch chưa có tiền lệ. Tìm mọi cách thuê, mua, xin bình oxy, nâng số giường cho F0, bố trí bồn oxy lỏng dung tích lớn nhất thời điểm ấy tại bệnh viện dã chiến của quận. Kết quả, sau 3 tuần, bệnh viện dã chiến số 1 quận 7 đã góp phần vào giảm tỷ lệ tử vong hơn 31%. Ngày 30/8, Quận 7 là một trong ba địa phương đầu tiên công bố kiểm soát được dịch bệnh COVID-19.
Từ những câu chuyện trên, có thể thấy, cán bộ dám đột phá, sáng tạo luôn phải đối diện với vô vàn áp lực. Đó là kỷ luật Đảng, sự nghi ngờ về động cơ thực hiện, rồi thậm chí là những hậu quả nặng nề nếu như xé rào thất bại. Đã có những bài học đau xót từ việc cán bộ “xé rào”, đề xuất ý tưởng vượt ra khỏi khuôn khổ chính sách pháp luật nhưng có nhiều lý do, trong đó có cả sự áp đặt, chủ quan, nhận thức của bối cảnh lúc đó nên việc đổi mới không phải lúc nào cũng được ghi nhận, thậm chí cán bộ còn bị kỷ luật. Do đó, sau khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14 ngày 22/09/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, chúng ta cần khẩn trương cụ thể hóa nội dung Kết luận của Bộ Chính trị để xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung để khuyến khích cán bộ, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội thời điểm hiện nay.
Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
Ngày 22/09/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, trong đó khẳng định:
“ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khuyến khích, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu này khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, tinh thần năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có đóng góp rất quan trọng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý với bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực tổng kết thực tiễn sắc bén, tư duy đổi mới sáng tạo, khả năng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Để thực hiện thành công đường lối đổi mới và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số chủ trương sau:
- Nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ.
- Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.
- Đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ phải báo cáo với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị quan tâm hỗ trợ nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ triển khai thực hiện.
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện thí điểm các đề xuất đổi mới, sáng tạo. Chủ động phát hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời động viên, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hoặc xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế. Phát hiện sớm và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh sai sót, vi phạm.
Khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
Xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Định kỳ sơ kết, tổng kết, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới, sáng tạo có hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hoá thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp đó. Đồng thời biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao”.
Có thể nhận thấy, trên thực tế khi thực hiện đột phá, sáng tạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, không ai dám đảm bảo 100% rằng “xé rào” sẽ thành công, do đó để thúc đẩy tinh thần dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, trong Kết luận của Bộ Chính trị cũng nêu rõ nếu việc thí điểm có kết quả không đạt hoặc xảy ra thiệt hại, các cơ quan chức năng phải đánh giá công tâm, xem xét nếu thực hiện có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm. Quy định này khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Đảng đối với cơ chế đề cao sự năng động, sáng tạo của cán bộ vì lợi ích chung, dù rằng, còn nhiều điều phải làm để chủ trương này đi vào cuộc sống.
Doanh nghiệp - lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước
Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định vai trò quan trọng của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Về vai trò và định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp, Đại hội XI nhấn mạnh: “Cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước”, các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Đến Đại hội XII, Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, xác định đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, bên cạnh việc khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, văn kiện xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển quan trọng góp phần khơi gợi tiềm năng to lớn trong nhân dân để phát triển đất nước. Về vai trò và định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp, Đại hội XII có cách nhìn tổng quan hơn, bước đầu xem xét các doanh nghiệp Việt Nam như một tổng thể hữu cơ, gắn bó với nhau: “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” và đã ra nhiệm vụ: “Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục thống nhất và nâng cao một bước nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó xác định: “... kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Văn kiện đề ra mục tiêu phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước, phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60% - 65%. Đây là mục tiêu lớn, đầy tham vọng nếu tính đến thực trạng doanh nghiệp Việt Nam cũng như những khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với sự phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 đang diễn biến hết sức phức tạp và khó lường ảnh hưởng nghiêm trọng tới doanh nghiệp, cùng với đó doanh nghiệp còn hạn chế cả về số lượng, chất lượng (nhiều doanh nghiệp nhà nước hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, cơ chế quản trị lạc hậu; phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu; nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) công nghệ trung bình, chủ yếu gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết và chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp trong nước).
Thực hiện mục tiêu phát triển doanh nghiệp:
Mục tiêu phát triển doanh nghiệp mà Đại hội XIII đề ra rất to lớn, đòi hỏi nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Nhiều giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đã được Đại hội XIII đưa ra với tinh thần chung là lấy doanh nghiệp là trung tâm, giải pháp tổng thể là cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp. “Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu”.
Thời gian qua, vấn đề phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Thực tế hằng năm, Chính phủ đều tổ chức hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp để lắng nghe ý kiến, kiến nghị, giải quyết khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Hằng năm, Chính phủ đều ban hành một nghị quyết riêng về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với các nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp. Nhiều giải pháp về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh đã được triển khai. Trong nhiệm kỳ 2016 - 2020, đã cắt giảm, đơn giản hóa khoảng 6,8 nghìn trong tổng số 9,9 nghìn dòng hàng kiểm tra chuyên ngành; cắt giảm, đơn giản hóa khoảng 3,9 nghìn trong tổng số 6,2 nghìn điều kiện kinh doanh; cắt giảm 30 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành; hơn 1,5 nghìn mặt hàng kiểm tra chuyên ngành chồng chéo đã được xử lý;... Vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng nhanh, từ thứ 90/189 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2016 lên thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2019.
Trong thời gian tới, để doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng có thể đạt như mục tiêu như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra thì cùng với việc cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tháo gỡ các “điểm nghẽn”, những khó khăn, vướng mắc mà cộng đồng doanh nghiệp thường gặp, các cấp chính quyền cần triển khai, cụ thể hóa xây dựng cơ chế để bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích theo nội dung Kết luận số 14 của Bộ Chính trị ngày 22/09/2021 trong đó có đối tượng là cán bộ, người lao động làm trong doanh nghiệp nhà nước nói riêng (doanh nghiệp khác nói chung).
Đề xuất xây dựng cơ chế để bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung trong Doanh nghiệp nhà nước.
Có ý kiến cho rằng, thời gian qua, công cuộc phòng chống tham nhũng, xử lý cán bộ sai phạm đã khiến một số cán bộ có tâm lý sợ sai, không dám quyết, không dám làm, trong đó có cán bộ của Doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, đây là một sự bao biện. Những cán bộ bị xử lý đều vì những sai phạm, động cơ cá nhân. Còn công tác phòng chống tham nhũng, theo khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, không cản trở phát triển kinh tế - xã hội, làm nhụt chí cán bộ; mà ngược lại, đem đến những thành tựu đáng tự hào về kinh tế xã hội, làm trong sạch đội ngũ cán bộ. Kết luận số 14 của Bộ Chính trị, bên cạnh việc thúc đẩy sự đột phá, tinh thần dám nghĩ dám làm của cán bộ, đảng viên, còn góp phần giải quyết hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khi công việc của đất nước thì nhiều nhưng có lúc, có nơi không ai dám quyết và chịu quyết.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh đối với doanh nghiệp nhà nước hiện nay cơ bản đã đầy đủ, đã có nhiều quy định tương đối rõ, phù hợp và góp phần tạo khung pháp lý để hình thành một cơ chế hoạt động, quản trị có hiệu quả cho các doanh nghiệp, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn, đang gây khó khăn, cản trở các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Do đó, có 02 vấn đề đặt ra đối với cán bộ, người quản lý doanh nghiệp:
Một là, nếu doanh nghiệp (cán bộ, người quản lý doanh nghiệp) đợi cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp lý không phù hợp sẽ phải mất một khoảng thời gian, điều này sẽ làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm đó (mặc dù theo đánh giá cơ hội này mang lại lợi nhuận, lợi ích cao cho nhà nước và doanh nghiệp nhà nước) và ảnh hưởng tới hiệu quả, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; hoặc hai là, nếu doanh nghiệp (cán bộ, người quản lý doanh nghiệp) quyết định “xé rào” thực hiện vì lợi ích chung của nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước khi pháp luật chưa điều chỉnh, thực hiện khi pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn để mang lại lợi nhuận, hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước.
Có thể thấy rằng trong 02 vấn đề nêu trên thì nhiều cán bộ, người quản lý doanh nghiệp sẽ quyết định theo phương án thứ nhất đợi sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp lý hơn so với phương án hai là “xé rào” quyết định, bởi vì cán bộ, người quản lý có thể sẽ phải đối mặt với kỷ luật, cao hơn có thể phải gặp rắc rối về pháp lý nếu việc “xé rào” thực hiện vì lợi ích chung không thành công.
Vì vậy, cần thiết và cấp bách để cụ thể hóa xây dựng cơ chế để bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung trong doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thể hiện được vai trò là công cụ của Nhà nước trong việc thực hiện định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nên sức mạnh kinh tế quốc gia trong từng thời kỳ; thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước giao, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước thì ngoài các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tháo gỡ các “điểm nghẽn”, những khó khăn, vướng mắc mà cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt trong điều kiện đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp.
Trên cơ sở nội dung Kết luận số 14 ngày 22/09/2021 của Bộ Chính trị, các địa phương, cấp, ngành sẽ cụ thể hóa chủ trương, nội dung của Kết luận để xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Dưới góc độ là một đảng viên, cán bộ đang làm công tác pháp chế, người viết xin được đề xuất, góp ý một số nội dung về cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung trong doanh nghiệp nhà nước như sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế, đưa vào luật hóa (Bộ Luật Hình sự, Luật phòng chống tham nhũng,…) những quy định, hành vi cụ thể để không xem xét trách nhiệm, giảm trách nhiệm đối với cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung nhằm giải quyết tình trạng trì trệ, những vấn đề lúng túng khó khăn, vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn điều hành, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, xây dựng bộ tiêu chí để nhận diện, phân biệt giữa hành vi của cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung ngoài những yêu cầu chung bảo đảm quy chế, quy định, luật pháp, cần có “lối thoát” để những người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung không gặp phải hệ lụy tiêu cực, sự nghiệp bị ảnh hưởng bởi những quy định cứng nhắc.
Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng cơ chế để bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung thì cũng cần có “bộ lọc” những người lợi dụng, nhân danh đột phá, sáng tạo nhưng vì động cơ vị kỷ, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ. Trường hợp “núp bóng” sáng tạo, đổi mới mà phục vụ lợi ích cá nhân thì cần phải xử lý thật nghiêm để răn đe, giáo dục.
Xét đến cùng, cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung là một phương thức khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực cho Đảng và đất nước; phát huy nguồn lực trí tuệ giúp tập thể phát triển lớn mạnh. Một khi không khuyến khích được cái mới, tạo điều kiện cho tư duy đột phá là sẽ đồng nghĩa với việc tạo môi trường cho cái bảo thủ, lạc hậu, trì trệ chiếm ưu thế, cản trở sự phát triển. Cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ còn đáp ứng yêu cầu tự thân muốn cống hiến, khẳng định mình của cán bộ; tạo không gian đổi mới, sáng tạo để họ có thể giải phóng các tiềm năng, phát huy tối đa phẩm chất, năng lực của mình vì lợi ích chung. Kinh nghiệm của một số nước phát triển trên thế giới cho thấy, chính sách khuyến khích, bảo vệ người có năng lực, dám nghĩ, dám làm là cơ sở vững chắc để đội ngũ cán bộ an tâm phấn đấu, phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của mình vào hoạt động của tổ chức./.
Cao Văn Thắng - Phó Trưởng Ban Pháp chế Đảng bộ SCIC