Bài dự thi Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2023
Agribank đồng hành cùng "Tam nông", góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch không thay đổi, xuyên suốt, song thủ đoạn tiến hành của chúng ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn; trên lĩnh vực kinh tế chúng tuyên truyền chống phá chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, bằng nhiều thủ đoạn như thông qua các tập đoàn, công ty nước ngoài đầu tư chủ yếu vào khu vực kinh tế tư nhân, nhằm hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển; từng bước tìm cách đầu tư chiếm lĩnh những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như điện lực, bảo hiểm, ngân hàng,… để chi phối, kiểm soát, khống chế nền kinh tế nước ta, tiến tới làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, làm cho nền kinh tế nước ta phát triển chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.
Hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam đang giữ vai trò quan trọng, là “cánh tay đắc lực” của Chính phủ trong thực thi chính sách tiền tệ nhằm thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảo đảm an sinh xã hội của đất nước. Agribank là ngân hàng thương mại duy nhất Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, chủ lực đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phát triển “Tam nông” luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội; là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn nhấn mạnh quan điểm đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò chiến lược của phát triển kinh tế nông nghiệp góp phần đổi mới, phát triển đất nước, cũng như những đóng góp của Agribank trong lĩnh vực này nhằm làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị.
Quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam - đã đưa ra tư tưởng quan trọng và có giá trị về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ đặc điểm, từ hoàn cảnh cụ thể, từ tiềm nǎng thế mạnh sẵn có trong nền kinh tế truyền thống, chủ yếu và quan trọng nhất là nền nông nghiệp, và từ lực lượng lao động hùng hậu, cần cù lao động là nông dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với mục đích của chủ nghĩa xã hội là từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động mà nông dân chiếm tuyệt đại đa số, trong đó cơm no áo ấm luôn là yêu cầu hàng đầu, quan trọng nhất.
Trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946, Người viết “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”. Người chỉ rõ: “Đa số dân ta là nông dân. Mỗi việc đều phải dựa vào nông dân. Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông dân mới được giải phóng”. Người khẳng định “Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân: công nghiệp và nông nghiệp. Công nghiệp của ta đã có tiến bộ, nếu nông nghiệp không tiến bộ hoặc cứ cầm chừng thì như què, vì vậy phải cố gắng mà đưa nông nghiệp tiến lên”. Và người yêu cầu: “Nâng cao nông nghiệp là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn chính quyền, toàn dân”.
Quan điểm toàn diện, tổng quát của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn có giá trị và sức sống vượt thời gian, có sức gợi mở, định hướng, là “kim chỉ nam” cho việc soạn thảo, ban hành chiến lược, kế hoạch và chính sách nông nghiệp, cũng như việc vận dụng vào đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn ba mươi lăm năm đổi mới vừa qua đã khẳng định rõ thêm quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò nền tảng của nông nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Quan điểm vừa hợp lòng dân, vừa đúng quy luật và đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức ngày càng sâu sắc, vận dụng ngày càng thành công trong đổi mới.
Cán bộ của Agribank đồng hành cùng nông dân trong sản xuất. |
Vận dụng quan điểm về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước
Trước đổi mới, có giai đoạn nước ta ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chưa coi trọng đúng mức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đời sống Nhân dân khó khăn, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nhận rõ thiếu sót đó, Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đã chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế, hướng đầu tư vào 3 chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trong đó, chương trình lương thực - thực phẩm là quan trọng nhất nhằm trước hết đảm bảo lương thực đủ ăn cho xã hội và có dự trữ một phần. Như vậy, từ sau đại hội VI, nông nghiệp đã thực sự trở về với vai trò là cơ sở phát triển của công nghiệp, nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết 26-NQ/TW), Đảng khẳng định “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng” là thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, hợp lòng dân, sát thực tiễn, tính khả thi cao, tạo được cảm hứng của cả hệ thống chính trị. Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 16/06/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 19-NQ/TW) đã nêu bật những thành tựu to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW. Thực tiễn nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt, tích cực, cụ thể:
Thứ nhất, nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Năng suất lao động nông nghiệp đạt 55,9 triệu đồng/người, gấp hơn 4 lần so với năm 2008. Quy mô xuất khẩu nông sản tăng bình quân 8,01%/năm; năm 2020 đạt 42,34 tỷ đô la Mỹ; năm 2021 đạt 48,6 tỷ USD; năm 2022 đạt 53,2 tỷ USD. Nông sản của Việt Nam có mặt ở 196 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục là 03 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam với các mặt hàng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới như: gạo, cao su, cà phê, điều, hồ tiêu, tôm, cá tra, đồ gỗ, trái cây nhiệt đới.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, tăng tỉ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ, gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng nông thôn, ưu tiên hệ thống thủy lợi, giao thông vận tải; tăng cường kết nối nông thôn - đô thị, phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Trong hơn 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, đã huy động được nguồn lực lớn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn với tổng vốn đầu tư giai đoạn 2008 - 2020 là 1.567 nghìn tỷ đồng (cho sản xuất nông nghiệp 611 nghìn tỷ đồng, nông thôn 956 nghìn tỷ đồng); trong 5 năm 2016 - 2020 khoảng 942 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần so với 5 năm 2011 - 2015.
Thứ ba, nông thôn đổi mới, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, điều kiện sinh sống của người dân nông thôn được cải thiện. Cơ sở hạ tầng thiết yếu được nâng cấp theo hướng đồng bộ, hiện đại, kết nối với đô thị, phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất và đời sống. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta ngày càng được củng cố, nâng cao.
Agribank đồng hành cùng “Tam nông”
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986 và xác định đổi mới hệ thống ngân hàng là khâu then chốt, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) được thành lập theo Nghị định số 53-HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) với sứ mệnh được định vị từ ngày đầu thành lập là phục vụ cho công cuộc đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam.
Qua mỗi thời kỳ phát triển, với những tên gọi gắn với sứ mệnh khác nhau, xuyên suốt 35 năm xây dựng và phát triển, Agribank luôn khẳng định vị thế, vai trò của một trong những Ngân hàng Thương mại hàng đầu Việt Nam, đi đầu thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, luôn đồng hành cùng sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, có nhiều đóng góp tích cực thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội.
Đảng ủy Agribank luôn xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Agribank đó là chủ lực đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Agribank luôn là đơn vị đi đầu, nghiêm túc trong thực hiện các chương trình tín dụng chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu chính sách đề ra.
Thật vậy, thời kỳ đầu mới thành lập, Agribank có “điểm xuất phát thấp” tổng tài sản chưa tới 1.500 tỷ đồng; tổng nguồn vốn 1.056 tỷ đồng, trong đó vốn huy động chỉ chiếm 42%, còn lại 58% phải vay từ Ngân hàng Nhà nước; Tổng dư nợ 1.126 tỷ đồng trong đó 93% là ngắn hạn; tỷ lệ nợ xấu trên 10%; Khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phần lớn làm ăn thua lỗ, thiếu việc làm và luôn đứng trước nguy cơ phá sản. Sau 35 năm, đến nay Agribank đã trở thành một ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu Việt Nam về quy mô mạng lưới (2.300 chi nhánh và phòng giao dịch), đội ngũ cán bộ công nhân viên với gần 40.000 cán bộ, viên chức rất “am hiểu khách hàng, am hiểu địa bàn nông thôn”. Số liệu cuối năm 2022, tổng tài sản của Agribank đạt trên 1,89 triệu tỷ đồng; Nguồn vốn đạt trên 1,71 triệu tỷ đồng; Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt trên 1,44 triệu tỷ đồng; trong đó trên 65% dư nợ cho vay phục vụ phát triển “Tam nông”, tỷ lệ nợ xấu chỉ còn 1,81%. Agribank cũng là ngân hàng hàng đầu trong việc tiếp nhận và triển khai các Dự án tín dụng nước ngoài của các nhà tài trợ quốc tế, giữ vai trò tích cực trong Ban điều hành của các Hiệp hội tín dụng nông nghiệp quốc tế…
Trong hành trình 15 năm đưa Nghị quyết 26-NQ/TW đi vào cuộc sống, dư nợ cho vay “Tam nông” của Agribank luôn duy trì phù hợp với mục tiêu đề ra (hàng năm đạt 65% - 70%), góp phần quan trọng để lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn không ngừng phát triển, tạo thế và lực mới cho vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Hiện nay, Agribank đang tập trung triển khai hiệu quả 7 chương trình tín dụng chính sách và 2 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững: Cho vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn; cho vay theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; cho vay tái canh cây cà phê; triển khai thí điểm cho vay cánh đồng mẫu lớn và chuỗi liên kết, sản xuất ứng dụng công nghệ cao tại các địa phương trên cả nước; triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản nhằm “tiếp sức” ngư dân bám biển và chung tay cùng cả nước xây dựng nông thôn mới; Thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh trên cả nước... đến hơn 3,5 triệu hộ nông dân, chắp cánh cho các mô hình kinh tế nông nghiệp lớn phát triển, hướng tới một nền sản xuất xanh, bền vững, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới.
Hoạt động an sinh xã hội luôn được Agribank triển khai song song với hoạt động kinh doanh trong nhiều năm qua. Agribank chủ động, tích cực tham gia hoạt động an sinh xã hội. Mỗi năm, từ nguồn tài chính của mình cũng như đóng góp tự nguyện từ cán bộ, nhân viên toàn hệ thống, Agribank dành từ 400 tỷ - 500 tỷ đồng tài trợ xây dựng trường học, trạm y tế, nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo trên khắp cả nước, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, các địa phương còn nhiều khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm 2023, Agribank đã ủng hộ 215 tỷ đồng cho các hoạt động an sinh xã hội tại khắp các địa phương trên cả nước, trong đó, tính riêng kinh phí dành cho hoạt động xây nhà tình nghĩa, nhà cho người nghèo, nhà đại đoàn kết là 56 tỷ đồng, kinh phí dành cho các hoạt động giáo dục là 69 tỷ đồng, lĩnh vực y tế gần 55 tỷ đồng. Với những thành tích đó, Agribank được ghi nhận là “Ngân hàng vì cộng đồng” tại Việt Nam suốt nhiều năm liên tục gần đây và nhận giải thưởng “Ngân hàng thực hiện tốt trách nhiệm xã hội khu vực Đông Nam Á” do tổ chức Asian Banking & Finance trao tặng.
Đảng ta luôn xác định dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Vận dụng, làm tốt công tác dân vận, Đảng ủy, Hội đồng thành viên, Ban điều hành và các cấp ủy, tổ chức đảng, đoàn thể trong toàn ngành luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân vận theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; tập trung tuyên truyền, vận động cán bộ, người lao động tích cực phát huy trách nhiệm chính trị, quyết tâm hoàn thành tốt nhất mọi nhiệm vụ, đóng góp quan trọng vào kết quả hoạt động hàng năm của Agribank nhằm dựng xây Agribank ngày càng phát triển hiện đại và hội nhập, khẳng định vai trò ngân hàng chủ lực đối với “Tam nông” - “trụ đỡ” nền kinh tế đất nước. Agribank luôn xác định: "Sức mạnh nội tại làm nên vị thế của Agribank hôm nay chính là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn hệ thống". Công tác xây dựng Đảng tại Agribank tiếp tục được đẩy mạnh, vai trò tiên phong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng thể hiện rõ nét, là hạt nhân trong triển khai đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tổ chức thành công nhiệm vụ chính trị.
Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của Agribank được thực hiện thường xuyên, qua đó đã đôn đốc, nhắc nhở các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với công tác xây dựng Đảng, góp phần ổn định, đoàn kết nội bộ, hoạt động kinh doanh tăng trưởng bền vững. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ủy chú trọng công tác đánh giá, tổ chức sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương theo quy định.
Hơn 35 năm qua, dòng vốn của Agribank đã và tiếp tục bền bỉ đồng hành cùng “Tam nông”, làm thay đổi căn bản chất lượng cuộc sống của người dân khu vực nông thôn. Từ đồng vốn của Agribank đã giúp thoát nghèo và tạo cơ hội làm giàu cho nhiều nông dân, góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi địa phương, thực sự là đòn bẩy hiệu quả trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, từng bước thực hiện thành công đề án tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam.
Thành quả Agribank đạt được góp phần phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua hơn 35 năm là kết quả của lớp lớp thế hệ cán bộ, người lao động có tinh thần trách nhiệm, quyết tâm cao, không ngừng nỗ lực, bền bỉ phấn đấu, chung sức đồng lòng dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát của các cấp ủy Đảng Agribank dựng xây vì một Agribank với triết lý kinh doanh “Mang phồn thịnh đến khách hàng”. Sức mạnh đoàn kết, khát vọng và hành động đổi mới luôn thôi thúc trong trái tim nhiệt huyết của gần 4 vạn cán bộ người lao động Agribank, là điểm tựa vững chắc để Agribank đã vượt qua khó khăn, thử thách để tồn tại, ổn định và phát triển bền vững; tôi luyện cho Agribank có một bản lĩnh vững vàng trước mọi gian khó để vươn lên, đi tiếp và ghi những dấu ấn thành công trên hành trình cống hiến cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Một số giải pháp thu hút vốn cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW
Nông thôn bao đời nay là gốc rễ, nền tảng cho sự phát triển phồn vinh của dân tộc Việt Nam. Là địa bàn rộng lớn, chiếm đến 4/5 diện tích cả nước, nơi sinh sống của 2/3 dân số và lực lượng lao động toàn quốc, nông thôn không chỉ là cơ sở cho đảm bảo an ninh lương thực, mà còn là thị trường tiêu thụ lớn, nơi cung cấp nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nông thôn cũng là cái nôi của nền văn hóa dân tộc, nơi bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, là nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội; là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhiều chủ trương, chính sách đặc biệt đã được ban hành nhằm phát triển nông nghiệp, không ngừng nâng cao đời sống của người nông dân.
Nghị quyết 19-NQ/TW nêu quan điểm: “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời, có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng hội nhập quốc tế.
Việc “mở cửa” tín dụng vào nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc tập trung chủ yếu từ 03 nhóm nguyên nhân sau : (1) sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực có khả năng sinh lợi thấp, tiềm ẩn nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, lĩnh vực xuất khẩu nông sản luôn phải đối mặt với rào cản thương mại ngày càng phức tạp, khắt khe như: Việc Mỹ áp dụng đạo luật Farmbill, EU tăng cường kiểm tra giám sát chống khai thác thủy sản biển bất hợp pháp, … nhưng các cơ chế xử lý, phòng ngừa rủi ro chưa mạnh mẽ. Thực tế này ảnh hưởng lớn đến năng lực tài chính và khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng vay vốn khi gặp rủi ro trong xản xuất kinh doanh; (2) sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ; sản xuất theo chuỗi giá trị chưa được tổ chức và phát triển hợp lý, hiện tượng vi phạm hợp đồng liên kết của người dân, doanh nghiệp đầu mối còn phổ biến do ý thức chưa cao và chế tài chưa nghiêm gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc kiểm soát dòng tiền khi cho vay chuỗi; (3) Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thiếu ổn định, tình trạng mất cân đối cung cầu, sản xuất và tiêu dùng, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thường diễn ra, trong khi công tác phân tích, dự báo thị trường cũng như quy hoạch còn bất cập.
Để thu hút nguồn vốn tập trung đầu tư vào nông nghiệp nhằm chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo đúng tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW cần tập trung vào một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, phòng ngừa rủi rủi ro trong cho vay vào lĩnh vực nông nghiệp như: từng bước mở rộng quy mô bảo hiểm cho các đối tượng sản xuất nông nghiệp. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm trong nông nghiệp lại có tác động lớn đến hoạt động cho vay đối với lĩnh vực này, bởi nếu tổn thất của người vay vốn được hạn chế thì nguy cơ mất vốn hoặc mất nguồn thu của tổ chức tín dụng cũng được giảm thiểu. Một chính sách hỗ trợ bảo hiểm có hiệu quả cũng chính là điều kiện quan trọng để phát triển hoạt động cho vay đối với các nhà đầu tư trong nông nghiệp; chủ động triển khai, hướng dẫn thủ cấp cấp giấy chứng nhận tài sản hình thành trên đất nông nghiệp để người dân, doanh nghiệp có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng; Hoàn thiện chính sách quản trị rủi ro trong cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn cũng cần rõ ràng về trách nhiệm giữa Nhà nước, của tổ chức tín dụng, của người vay khi rủi ro bất khả kháng xảy ra và có cơ chế xử lý nhanh để bù đắp tái tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất; hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý tài sản bảo đảm tiền vay cũng như xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khoản vay gặp rủi ro; Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục ban hành cụ thể các văn bản quy định về việc hỗ trợ nguồn vốn đối với các tổ chức tín dụng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các chính sách hỗ trợ khác);….
Hai là, Xây dựng, tiếp tục hoàn thiện các quy trình thúc đẩy chuyển đổi số nông nghiệp nhằm khắc phục sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ và thiếu liên kết; quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch mô hình liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của nhà nước. Tạo ra các cơ chế hợp lý để giải quyết ổn thỏa tranh chấp giữa các nhà, hạn chế thấp nhất vi phạm hợp đồng liên kết đã ký kết. Nông dân có thể chia sẻ với giới khoa học, doanh nghiệp những thực tiễn, bài toán trong canh tác để nhận được sự hỗ trợ, giải quyết vấn đề.
Ba là, Các cơ quan chức năng liên quan (Bộ, ngành, địa phương) cần quan tâm hơn nữa đánh giá, dự báo, cảnh báo về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nông nghiệp, nhất là sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra của nông nghiệp; nghiên cứu, triển khai các giải pháp thu hút nguồn vốn ưu đãi, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đồng thời có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Bốn là, Đẩy mạnh xây dựng chính sách hỗ trợ người nông dân, doanh nghiệp tiếp cận, đào tạo kiến thức, huấn luyện kỹ năng, cập nhật kỹ thuật, công nghệ tiến tiến trong lĩnh vực nông nghiệp để người nông dân, doanh nghiệp chủ động tiếp cận đánh giá nhu cầu thị trường, nâng cao trình độ quản lý, năng lực sản xuất, lành mạnh hóa tình hình tài chính và xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả để tăng khả năng tiếp cận vốn vay tại các TCTD.
Năm là, thường xuyên tổ chức các chương trình kết nối giữa Chính quyền địa phương – Ngân hàng – Doanh nghiệp, người nông dân để kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cho khách hàng vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Sáu là, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo các TCTD xây dựng và triển khai những sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù của sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động tín dụng, cải tiến quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay,…
Ngoài các giải pháp cơ bản trên, để Agribank tiếp tục phát huy vai trò chủ lực trong đầu tư “Tam nông”, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần tích cực vào quá trình thực thi chính sách tiền tệ và điều hành chính sách kinh tế của Chính phủ, và trong bối cảnh vốn Ngân sách Nhà nước còn khó khăn, rất mong Chính phủ trình Quốc hội thông qua chủ trương cho phép áp dụng cơ chế tăng vốn điều lệ hàng năm cho Agribank từ phần lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước của Agribank. Việc bổ sung thêm vốn điều lệ sẽ giúp Agribank đảm bảo tuân thủ được tỷ lệ an toàn vốn trên mức 8% và duy trì ổn định tỷ lệ này theo quy định, hướng tới tuân thủ quy định của Basel II. Chuẩn mực Basel II là giải pháp tối ưu để các ngân hàng thương mại trụ vững trước những biến động khó lường của thị trường tài chính. Việc các ngân hàng thương mại áp dụng tiêu chuẩn Basel II là một xu hướng tất yếu và bắt buộc khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Năm 2023, Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động linh hoạt, hiệu quả đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế khác nhằm kiểm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý, trong đó định hướng tín dụng tăng 14%-15%, có điều chỉnh với diễn biến, tình hình thực tế.
Bám sát chỉ đạo của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Ngân hàng Nhà nước, tình hình năm 2023 và những năm tiếp theo được xác định có nhiều khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế và hoạt động ngân hàng, ngày 05/01/2023 Đảng ủy Agribank đã xây dựng và ban hành Nghị quyết số 19-NQ/ĐU-NHNo về nhiệm vụ công tác năm 2023, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để Agribank hướng tới mục tiêu trở thành ngân hàng hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững vai trò chủ lực trên thị trường tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Kết quả hoạt động đến 30/6/2023, Agribank tiếp tục giữ vững vai trò chủ lực trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, với tỷ trọng đầu tư cho khu vực "Tam nông" chiếm khoảng 65%/tổng dư nợ, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thị phần tín dụng đầu tư nông nghiệp, nông thôn tại Việt Nam. Tổng kết qua hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ Agribank hoàn thành đạt và vượt 3/4 chỉ tiêu công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị, 11/11 nhóm chỉ tiêu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cả nhiệm kỳ 2020 - 2025. Kết quả đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ Agribank trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị nửa nhiệm kỳ vừa qua.
Điểm sáng trong công tác xây dựng Đảng bộ Agribank là đến hết ngày 14/4/2023, Đảng ủy Agribank đã hoàn thành việc tiếp nhận các tổ chức đảng, đảng viên từ các đảng bộ địa phương về trực thuộc Đảng bộ Agribank theo Quy định 60-QĐ/TW ngày 8/3/2022 của Ban Bí thư; góp phần hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, tạo sự thống nhất trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện nhiệm vụ chính trị; đồng thời cũng đặt ra vấn đề cần tập trung xem xét, điều chỉnh các chỉ tiêu Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng phù hợp với quy mô của tổ chức khi Agribank đã thực hiện vận hành Đảng bộ toàn hệ thống.
Tiếp nối kết quả đầy khích lệ các năm trước, toàn Đảng bộ, toàn hệ thống Agribank vững tin, quyết tâm đẩy mạnh hoạt động an toàn, hiệu quả, hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, kế hoạch đề ra năm 2023, ghi dấu hành trình tự hào 35 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (26/3/1988-26/3/2023), hướng tới khẳng định vị thế, vai trò Ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, chủ lực trên thị trường tài chính, nhất là nông nghiệp, nông dân, nông thôn, hướng tới ngân hàng bán lẻ, ngân hàng số, hiện đại và hội nhập, đóng góp tích cực xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng./.
Lê Thành Nam - Agribank Chi nhánh TP Quy Nhơn Bình Định