.
.

TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 4 - 2024

Chủ Nhật, 31/03/2024|22:46

I - TÌNH HÌNH THỜI SỰ, CHÍNH TRỊ NỔI BẬT TRONG NƯỚC­­­­

Tổng Bí thư chủ trì phiên họp đầu tiên Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng

Ngày 13/3, tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng đã chủ trì Phiên họp của Tiểu ban.

Phát biểu kết luận Phiên họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ không chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng mà còn là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà Bác Hồ bắt đầu chuẩn bị thành lập Đảng bằng việc đào tạo và huấn luyện cán bộ. Bác khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"; "Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng".

Đồng chí Trưởng Tiểu ban nêu rõ, hiện nay, cùng với việc chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, Đảng ta đang chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, dự kiến tổ chức vào quý I/2026. Tại Hội nghị lần thứ tám (tháng 10/2023), Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập 5 tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng (Tiểu ban Văn kiện, Tiểu ban Kinh tế - Xã hội, Tiểu ban Điều lệ Đảng, Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội). Hai nội dung quan trọng nhất của mỗi kỳ Đại hội Đảng là việc thảo luận, quyết định đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng (gọi tắt là thông qua các văn kiện) và bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng (gọi tắt là công tác nhân sự). Hai nội dung này liên quan chặt chẽ với nhau, đều phải chuẩn bị thật tốt, đặc biệt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội Đảng, là bộ tham mưu chiến đấu, hạt nhân lãnh đạo chính trị và là trung tâm đoàn kết, thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đây là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ, có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp liên quan đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ. Do đó, cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc cực kỳ quan trọng này không chỉ đơn thuần đối với việc tổ chức một Đại hội Đảng mà đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, sự phát triển của đất nước.

Giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong thời gian tới, Tổng Bí thư yêu cầu, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương phải chuẩn bị thật tốt để trình Đại hội thảo luận và quyết định nhân sự Trung ương khóa XIV, bảo đảm thành công của Đại hội và thắng lợi trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cả hệ thống chính trị phải làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao, với quyết tâm, nỗ lực rất lớn, có cách làm thật sự công tâm, khách quan, khoa học, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.

Tổng Bí thư lưu ý, phải thật sự phát huy dân chủ trong việc phát hiện, giới thiệu nhân sự đi đôi với xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu; chống tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen, "cánh hẩu", "lợi ích nhóm"; tránh cách làm giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc. Phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã phạm sai lầm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên, nạt dưới, bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Phải kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên. Cách làm là phải thận trọng, làm dứt điểm từng khâu, từng công đoạn, theo một quy trình chặt chẽ; làm đến đâu chắc đến đó, làm nhân sự Ban Chấp hành Trung ương trước, sau đó mới đến nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cuối cùng mới đến nhân sự lãnh đạo chủ chốt. Nếu có những công đoạn cần làm đồng thời thì phải xem xét một cách chặt chẽ, chắc chắn, bảo đảm sự đồng bộ, khoa học...

Tổng Bí thư, Trưởng Tiểu ban yêu cầu, các thành viên Tiểu ban Nhân sự và Tổ Giúp việc của Tiểu ban phải nắm chắc, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc, chế độ, quy chế và lề lối làm việc. Các thành viên Tổ Giúp việc phải là những cán bộ thật sự tin cậy, tuyệt đối trung thành, trung thực, trong sáng, công tâm, khách quan, đặc biệt là phải rất tỉnh táo, tinh tường "đừng nhìn gà hóa cuốc", "đừng thấy đỏ tưởng là chín"; tuyệt đối giữ nguyên tắc, quan hệ công tác, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân có liên quan; chống các biểu hiện tiêu cực chính ngay trong các cán bộ có trách nhiệm, các đại biểu Đại hội và các thành viên của Tiểu ban và Tổ Giúp việc. Tổ Giúp việc phải có quy chế, quy định chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công tâm dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tổng Bí thư lưu ý, trong quá trình lựa chọn, bố trí, sắp xếp nhân sự cụ thể, cần thống nhất quan điểm là không quá cầu toàn, không quá tuyệt đối hóa. Điều quan trọng là phải biết phân biệt, đánh giá chính xác bản chất, mức độ các điểm mạnh, điểm yếu để không chọn nhầm người; phải có cách bố trí, sắp xếp nhân sự sao cho phù hợp để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của mỗi thành viên, bổ sung cho nhau, tạo ra một ê-kíp mạnh, một tập thể lãnh đạo tương đối hoàn chỉnh...

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban nhấn mạnh, phải xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, một Bộ Chính trị mạnh, một Ban Bí thư mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với niềm tin yêu và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân.

Toàn văn bài phát biểu quan trọng  của đồng chí Tổng Bí thư được đăng tải trên Tạp chí điện tử Đảng ủy Khối.

Mở ra chương mới của quan hệ Việt Nam với Australia và New Zealand

Từ ngày 5 - 11/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã có chuyến công tác dự Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN-Australia, thăm chính thức Australia và New Zealand.Tiếp nối các thành quả rất phong phú đã đạt được trong nửa thế kỷ qua, chuyến công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính và Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN - Australia đã mở ra chương mới, tầm nhìn mới, cơ hội mới để phát huy hơn nữa giá trị, tầm vóc chiến lược của quan hệ Việt Nam - Australia, Việt Nam - New Zealand và ASEAN - Australia.

Với hơn 50 hoạt động, chuyến công tác đạt những kết quả rất quan trọng, toàn diện cả song phương và đa phương, vừa có ý nghĩa lâu dài trong phát huy giá trị chiến lược của các mối quan hệ, vừa đạt những kết quả cụ thể, thiết thực, đo lường được. Chuyến đi được dư luận, truyền thông quốc tế, chính giới, chuyên gia, đối tác, cộng đồng doanh nghiệp, người dân ở hai nước đánh giá cao vì sự năng động, quyết liệt, chân thành, cởi mở của lãnh đạo Chính phủ Việt Nam và một lần nữa khẳng định vai trò, vị thế, trách nhiệm ngày càng cao của Việt Nam đối với khu vực và thế giới.

Chuyến công tác tiếp tục góp phần triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng XIII, trường phái, bản sắc “ngoại giao cây tre”, Kết luận 59-KL/TW của Bộ Chính trị về định hướng tham gia ASEAN đến năm 2030 và Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.

Hội nghị Cấp cao Đặc biệt kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ASEAN - Australia có ý nghĩa đặc biệt vì 50 năm là “dấu mốc vàng” của quan hệ để từ đó đề ra định hướng cho sự phát triển quan hệ trong giai đoạn mới. Hội nghị cho thấy các đối tác ngày càng coi trọng vai trò và vị thế của ASEAN, là một minh chứng cho giá trị và tầm quan trọng ngày càng tăng của ASEAN, trong đó Việt Nam là một đối tác tích cực, năng động và trách nhiệm.Hội nghị đã thành công tốt đẹp, với nhiều kết quả quan trọng, khẳng định hai bên là những đối tác quan trọng vì tương lai, vì hòa bình và thịnh vượng.Hội nghị đã thông qua hai văn kiện quan trọng là “Tuyên bố Melbourne - Đối tác vì tương lai” và “Tuyên bố Tầm nhìn của Lãnh đạo ASEAN-Australia - Đối tác vì hòa bình và thịnh vượng”, làm cơ sở để triển khai quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện ASEAN - Australia thời gian tới.

Ngay từ đầu, Việt Nam đã tham gia chủ động, tích cực, cả trong quá trình chuẩn bị, xây dựng chương trình nghị sự và đàm phán văn kiện, cũng như tham gia, đóng góp quan trọng vào thành công chung của Hội nghị. Đặc biệt, các phát biểu sâu sắc, toàn diện, mang tầm chiến lược của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính được các nước đánh giá cao, vừa đánh giá đúng tầm mức quan hệ ASEAN - Australia 50 năm qua, vừa đề xuất tầm nhìn, định hướng tương lai và các đề xuất, sáng kiến thúc đẩy quan hệ trong thời gian tới.Nhân dịp tham dự Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tận dụng tối đa thời gian để gặp tất cả Lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN, Timor Leste, Australia, New Zealand và Tổng Thư ký ASEAN. Các đối tác đều đánh giá cao vai trò, vị thế của Việt Nam và mong muốn làm sâu sắc hơn nữa quan hệ giữa hai bên trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, du lịch, giao lưu nhân dân.

Ngay sau khi tham dự Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN-Australia, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã có chuyến thăm chính thức thành công về mọi mặt tới Australia và New Zealand, hai Đối tác Chiến lược của Việt Nam ở Nam Thái Bình Dương.

Với Australia, chuyến thăm diễn ra ngay sau khi hai nước vừa kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 - 2023). Với New Zealand, chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1975 - 2025). Đây cũng là các chuyến thăm đầu tiên của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới Australia và New Zealand trên cương vị mới và là chuyến thăm Australia và New Zealand đầu tiên của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam sau 7 năm.Hai nước đã dành cho Thủ tướng Phạm Minh Chính, Phu nhân và đoàn Việt Nam sự đón tiếp trọng thị, thân tình, chu đáo, nghi lễ ngoại giao cao nhất dành cho Người đứng đầu Chính phủ, với 19 loạt đại bác trong các lễ đón. Toàn quyền Australia đã đích thân lái xe điện đưa Thủ tướng Chính phủ và Phu nhân tham quan Phủ Toàn quyền. Chính phủ New Zealand dành cho Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phu nhân phong tục đặc biệt chào đón khách quý của người bản địa Maori.

Tại Australia, điểm nổi bật nhất của chuyến thăm là việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã cùng Thủ tướng Australia Anthony Albanese công bố nâng cấp quan hệ Việt Nam - Australia lên Đối tác Chiến lược toàn diện – đưa lịch sử quan hệ song phương bước sang một chương mới. Australia trở thành Đối tác Chiến lược toàn diện thứ 7 của Việt Nam.

Hai Thủ tướng đã nhất trí phối hợp chặt chẽ để thực hiện 06 phương hướng lớn, cũng là “6 điểm hơn” của khuôn khổ quan hệ mới, bao gồm: Thứ nhất, tin cậy chính trị, ngoại giao cao hơn, chiến lược hơn; thứ hai, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư bao trùm, thực chất, hiệu quả hơn, tận dụng các tiềm năng của của hai nền kinh tế có tính bổ trợ cao; thứ ba, thúc đẩy hợp tác khoa - học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh mạnh mẽ hơn; thứ tư, hợp tác văn hoá, giáo dục - đào tạo, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn diện, sâu sắc hơn; thứ năm, giao lưu nhân dân, kết nối giữa các thế hệ rộng mở và chân thành hơn; thứ sáu, hiểu biết, thông cảm và chia sẻ nhiều hơn về hợp tác an ninh-quốc phòng.

Tại New Zealand, Thủ tướng đã có cuộc hội đàm sâu rộng, đặc biệt và rất thành công với Thủ tướng Christopher Luxon. Hai bên đã thống nhất các phương hướng lớn làm sâu sắc hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực, được bao quát trong ba cặp từ khóa “ổn định và củng cố”, “tăng cường và mở rộng”, “tăng tốc và bứt phá”.

Thứ nhất, ổn định và củng cố tin cậy chính trị, lòng tin chiến lược, hợp tác chính trị, ngoại giao, tạo nền tảng vững chắc hơn cho quan hệ song phương.

Thứ hai, tăng cường và mở rộng hợp tác trên tất cả các trụ cột hợp tác quan trọng của quan hệ Đối tác Chiến lược giữa hai nước, gồm kinh tế - thương mại - đầu tư, an ninh quốc phòng, nông nghiệp, văn hóa và giao lưu nhân dân, kết nối địa phương. Trong đó, phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt mục tiêu 2 tỷ USD trong năm 2024 và sớm tăng gấp đôi đầu tư hai chiều.

Thứ ba, tăng tốc và bứt phá trong 3 lĩnh vực gồm: (i) Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường, giảm phát thải, phát triển nông nghiệp, các ngành công nghệ mới nổi như trí tuệ nhân tạo (AI), chíp bán dẫn...; (ii) kinh tế biển, bảo vệ môi trường biển; (iii) hợp tác lao động, đào tạo nghề, tạo điều kiện cho lao động của Việt Nam sang làm việc tại New Zealand.

Trong chuyến công tác, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có cuộc tiếp, tọa đàm, thúc đẩy các doanh nghiệp, tập đoàn lớn hàng đầu của thế giới và hai nước đẩy mạnh, mở rộng đầu tư, hợp tác với Việt Nam. Các bộ, ngành Việt Nam – Australia đã ký kết 13 văn kiện hợp tác, trong khi Việt Nam – New Zealand ký kết ba văn kiện; các trường đại học Việt Nam và hai nước cũng đạt được 13 thỏa thuận hợp tác.

Với những kết quả đạt được, chuyến công tác lần này của Thủ tướng Phạm Minh Chính có ý nghĩa quan trọng tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Việt Nam trước các vấn đề khu vực và quốc tế, phát huy vị thế, vai trò Việt Nam trong ASEAN, trong quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện ASEAN- Australia; đồng thời có ý nghĩa quan trọng đánh dấu cột mốc nâng tầm quan hệ Việt Nam – Australia lên Đối tác Chiến lược toàn diện và củng cố, tăng cường Quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – New Zealand.

I - TIN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG ỦY KHỐI VÀ CƠ SỞ

Hội nghị Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối tháng 3/2024

Ngày 28/03, tại Hà Nội, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị Ban Thường vụ tháng 3/2024. Đồng chí Nguyễn Long Hải, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương chủ trì Hội nghị.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã cho ý kiến vào Tờ trình về dự thảo Báo cáo kết quả công tác quý I, nhiệm vụ công tác quý II/2024 của Đảng bộ Khối; báo cáo kết quả tự kiểm tra việc triển khai thực hiện Quy định số 87-QĐ/TW của Ban Bí thư, các quy định, hướng dẫn của Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở và đảng bộ, chi bộ cơ sở trong Đảng bộ Khối; Tờ trình tham gia ý kiến vào dự thảo Đề cương báo cáo của Tiểu ban Điều lệ Đảng Đại hội XIV; kết quả Giải Búa liềm vàng Khối Doanh nghiệp Trung ương năm 2023 và sơ kết 5 năm tổ chức Giải (2029 - 2023); Tờ trình về nhân sự kiện toàn giữ chức vụ Bí thư, Chủ tịch HĐTV; nhân sự giới thiệu bầu bổ sung Ban Thường vụ Đảng uỷ; việc kiện toàn Ban Chấp hành, Uỷ Ban Kiểm tra, bầu Phó Chủ nhiệm UBKT các đảng uỷ trực thuộc, nhiệm kỳ 2020 - 2025; Tờ trình về việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị; xem xét kết nạp vào Đảng theo Quy định 58-QĐ/TW, ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị và các nội dung khác.

Đảng bộ Khối tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm (2020 - 2025) và 15 năm thực hiện Điều lệ Đảng

Ngày 12/3/2024, tại Hà Nội, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tổ chức Hội nghị tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm (2020 - 2025) và 15 năm thực hiện Điều lệ Đảng (2011 - 2025).

Hội nghị thống nhất đánh giá công tác tổng kết đã được Đảng ủy Khối xây dựng kế hoạch, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khẩn trương, nghiêm túc từ cấp ủy cơ sở trở lên. Các báo cáo tổng kết được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, dựa trên báo cáo của các đảng bộ trực thuộc, các ban xây dựng đảng của Đảng ủy Khối và kết quả khảo sát thực tiễn; bám sát đề cương, hướng dẫn tổng kết của cấp trên.

Từ năm 2020 đến nay, trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức, Đảng uỷ Khối và các cấp uỷ đảng trong toàn Đảng bộ đã bám sát Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ III nhiệm kỳ 2020-2025, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư,  chủ động ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận phù hợp với yêu cầu thực tiễn, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo doanh nghiệp tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả, toàn diện trên các mặt công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh.

Các mặt công tác xây dựng Đảng được triển khai nghiêm túc, nền nếp, đúng quy định.Công tác chính trị, tư tưởng có nhiều đổi mới quan tâm công tác nắm bắt và định hướng dư luận xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong doanh nghiệp. Việc học tập, quán triệt, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương được thực hiện nghiêm túc, bằng những hình thức phù hợp tạo thành những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các đảng bộ, chi bộ. Kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, quy chế, quy định về công tác xây dựng Đảng theo các quy định, hướng dẫn mới của Trung ương; kiện toàn, củng cố tổ chức đảng được thực hiện thường xuyên, đặc biệt việc tiếp nhận tổ chức đảng, đảng viên từ các địa phương về trực thuộc đảng ủy doanh nghiệp theo Quy định số 60-QĐ/TW của Ban Bí thư được thực hiện đồng bộ; việc thành lập, kiện toàn các cơ quan tham mưu, giúp việc, bố trí cán bộ chuyên trách công tác đảng ở các đảng ủy cấp trên cơ sở trực thuộc theo Quy định 87-QĐ/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 23-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương bảo đảm đúng yêu cầu. Công tác cán bộ được triển khai thực hiện thường xuyên, đúng quy định, quy trình. Tổ chức, bộ máy của Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Đảng ủy Khối được sắp xếp, kiện toàn, có bước tăng trưởng mới về quy mô, số lượng, từ đó tạo sự chuyển biến về chất, từng bước nâng cao năng lực trong việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn được giao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới được coi trọng, gắn với tiêu chuẩn chức danh, quy hoạch và bố trí, sắp xếp cán bộ; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được tăng cường.

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được chú trọng. Đảng ủy Khối đã thực hiện tốt chức năng lãnh đạo, kiểm tra, giám sát đối với các đảng bộ trực thuộc trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp chủ động thực hiện nhiệm vụ, tiến hành kiểm tra theo kế hoạch và tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Công tác dân vận của Đảng tiếp tục được quan tâm.Lãnh đạo các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp phát huy tốt vai trò trong giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng doanh nghiệp, đơn vị.

Đảng uỷ Khối thường xuyên nắm bắt tình hình, chỉ đạo, tham gia giải quyết những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị tại các đảng ủy trực thuộc. Phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương để tập hợp những khó khăn, vướng mắc đề xuất, kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư tạo điều kiện các đảng uỷ trực thuộc lãnh đạo tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tham mưu đề xuất về cơ chế chính sách, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Khối đã lãnh đạo, chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức; các doanh nghiệp, ngân hàng trong Khối đã rất cố gắng, nỗ lực có nhiều giải pháp trong sản xuất kinh doanh đạt kết quả tích cực, thể hiện rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước góp phần kiềm chế lạm phát, bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động của thị trường, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, công tác an sinh xã hội; thực hiện nghiêm nghĩa vụ với Nhà nước, đóng góp quan trọng vào ngân sách quốc gia; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập và chế độ, chính sách cho người lao động.

Trong thời gian tới, nhất là bước sang nhiệm kỳ 2025 - 2030, trước yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, hội nhập quốc tế và hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong Đảng ủy Khối xác định tiếp tục tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng; tiếp tục khẳng định, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị.

Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả, tạo sự chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, cơ sở đảng và đảng viên, kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, công tác dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong doanh nghiệp. Các đảng bộ, chi bộ tiếp tục khẳng định và giữ vững vai trò hạt nhân, lãnh đạo toàn diện trong các hoạt động của doanh nghiệp, đơn vị; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Cấp ủy các cấp tăng cường hướng về cơ sở, thường xuyên trao đổi, đối thoại, làm việc với các cấp ủy, tổ chức đảng, chú trọng đối thoại trực tiếp với người lao động để xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa người đứng đầu tổ chức đảng với đảng viên, củng cố niềm tin của người lao động đối với Đảng.

Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, thành viên Tiểu ban Điều lệ Đảng Đại hội XIV đã khẳng định: Với những kết quả nêu trong báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm (2020-2025) và tổng kết 15 năm thực hiện Điều lệ Đảng (2011-2025) là minh chứng cho việc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng trực thuộc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng; nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm đối với công tác xây dựng Đảng.

Đồng chí Nguyễn Quang Dương lưu ý, căn cứ từ thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, những vấn đề cụ thể trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua, các đảng uỷ trực thuộc trong Đảng bộ Khối cần tập trung nghiên cứu, đánh giá sâu về hạn chế, vướng mắc của các đảng bộ doanh nghiệp, ngân hàng thương mại nhà nước, các tổ chức đảng có đặc thù riêng và đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong giai đoạn mới; tổng hợp các đề xuất, kiến nghị, góp ý vào báo cáo Tổng kết của Trung ương.

Tổng kết và bế mạc Hội nghị, đồng chí Nguyễn Long Hải, Bí thư Đảng uỷ Khối đã nêu rõ: Việc tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm (2020-2025) và 15 tổng kết năm thi hành Điều lệ Đảng (2011-2025) nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện; đánh giá đúng những kết quả đạt được của cấp ủy các cấp trong Đảng bộ Khối; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Cương lĩnh Chính trị (bổ sung, phát triển năm 2021) và các nguyên tắc của Đảng. Để tiếp tục lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, đồng chí đề nghị các đảng ủy trực thuộc cần tập trung, quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, hướng dẫn của Trung ương, của Đảng ủy Khối và kịp thời nắm bắt, tổng hợp từ thực tiễn những khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, báo cáo với Đảng ủy Khối để nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị với cấp có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh phù hợp.

Đồng chí yêu cầu Tổ Biên tập xây dựng Báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm (2020 - 2025) và Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Điều lệ Đảng (2011 - 2025) của Đảng uỷ Khối tiếp thu đầy đủ các ý kiến chỉ đạo tại Hội nghị của đồng chí Nguyễn Quang Dương và các ý kiến tham gia đóng góp của các đảng ủy trực thuộc, tham mưu hoàn thiện các dự thảo Báo cáo để gửi Tiểu ban Điều lệ Đảng Đại hội XIV theo đúng thời gian và yêu cầu. Từ nay đến kết thúc nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối sẽ tiếp tục cập nhật bổ sung tình hình, kết quả, số liệu để làm mới báo cáo theo hướng dẫn của cấp trên và tiến tới chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025 - 2030.

Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương thăm, tặng quà tại tỉnh Sơn La

Ngày 16/3, đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương và Đoàn công tác đã thăm, làm việc và tặng quà tại tỉnh Sơn La.

Giai đoạn 2021-2025, toàn tỉnh Sơn La có hơn 8.300 hộ nghèo khó khăn về nhà ở; trong đó, 7.178 hộ đề nghị hỗ trợ xây mới, 1.140 hộ đề nghị hỗ trợ sửa chữa. Năm 2021, tỉnh Sơn La đã ban hành Đề án “Huy động nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở, giai đoạn 2021-2025”, với mục tiêu huy động mọi nguồn lực, phấn đấu đến hết năm 2025, hoàn thành việc hỗ trợ 100% hộ nghèo hộ khó khăn về nhà ở. 

Đến hết năm 2023, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sử dụng hiệu quả ngân sách từ các chương trình mục tiêu quốc gia, ngân sách tỉnh, ngân sách các huyện, sự ủng hộ đóng góp của các nhà tài trợ và nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội, toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ 4.810 nhà, với tổng kinh phí hỗ trợ gần 300 tỷ đồng. Đến nay, 8/12 huyện, thành phố đã hoàn thành Đề án.

Năm 2024 - 2025, số hộ thuộc diện cần hỗ trợ về nhà ở còn rất lớn, trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp, tỉnh Sơn La rất cần sự hỗ trợ, đóng góp quý báu của các nhà tài trợ trong và ngoài tỉnh để hoàn thành mục tiêu hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở.

Trong chương trình thăm và làm việc tại tỉnh Sơn La, Đoàn công tác của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam đã trao 20 suất hỗ trợ xóa nhà tạm, với tổng trị giá 1 tỷ đồng cho các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo trên địa bàn 2 huyện Yên Châu và Phù Yên, góp phần giúp tỉnh Sơn La từng bước hoàn thành mục tiêu hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở. 

Phát biểu tại chương trình, đồng chí Nguyễn Long Hải, Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương đánh giá cao tỉnh Sơn La trong việc huy động các nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở. Đảng ủy Khối sẽ tiếp tục đồng hành cùng tỉnh, huy động sự vào cuộc của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị trong Khối, với trách nhiệm cao nhất để hiện thực hóa mục tiêu Đề án “Huy động nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở tỉnh Sơn La, giai đoạn 2021-2025” đề ra, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn.

Hội nghị bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo Quy định 164-QĐ/TW

Ngày 15/3/2024, tại Hà Nội, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo Quy định 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối quản lý bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến tới 36 điểm cầu của các Đảng uỷ trực thuộc.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe chuyên đề “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2023; dự báo, triển vọng năm 2024” do đồng chí Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ Ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khoá XV trình bày và chuyên đề “Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng” do GS, TS Trần Thọ Đạt, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội trình bày.

Nội dung chuyên đề các báo cáo viên trình bày đã bổ sung kiến thức, giải pháp những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hội nghị giao ban công tác dư luận xã hội Khối Doanh nghiệp Trung ương Quý I/2024

Vừa qua, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị giao ban công tác dư luận xã hội Quý I/2024 nhằm trao đổi, phản ánh về tình hình dư luận xã hội trước, trong và sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn và định hướng một số nội dung trọng tâm trong công tác dư luận xã hội trong Quý I và thời gian tới. Đồng chí Nguyễn Trung Hiếu, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối tham dự và chủ trì Hội nghị.

Tại Hội nghị đã công bố Quyết định số 1721-QĐ/ĐUK, ngày 26/01/2024 về việc kiện toàn Cộng tác viên dư luận xã hội (DLXH) của Đảng ủy Khối, nhiệm kỳ 2020-2025 và thông tin một số tình hình dư luận xã hội nổi bật trong 02 tháng đầu năm 2024.

Qua báo cáo, phản ánh của các cộng tác viên cho thấy, cấp ủy các cấp trong Khối đã làm tốt công tác tổ chức Tết Giáp Thìn vui tươi, an toàn, tiết kiệm theo đúng tinh thần của Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 23/11/2023 của Ban Bí thư và Công văn số 2056-CV/ĐUK, ngày 14/12/2023 của Đảng uỷ Khối về việc tổ chức Tết Giáp Thìn năm 2024. Tình hình tư tưởng, dư luận xã hội tại các doanh nghiệp, đơn vị cơ bản ổn định, không có vấn đề nóng, vấn đề phức tạp nảy sinh. Các doanh nghiệp, đơn vị đã chuẩn bị, chăm lo và thực hiện tốt các điều kiện phục vụ cán bộ, đảng viên, người lao động theo đúng chế độ, quy định; duy trì tốt các hoạt động sản xuất - kinh doanh; đảm bảo, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, lưu chuyển, cung ứng kịp thời, đầy đủ hàng hóa, nhu yếu phẩm, tiền mặt và dịch vụ phục vụ nhân dân đón Tết; tình hình cung cấp điện cho hệ thống quốc gia được bảo đảm, mạng lưới viễn thông, thông tin liên lạc được thông suốt; đáp ứng đủ xăng dầu; các hoạt động an sinh xã hội được tổ chức phủ rộng trên mọi miền Tổ quốc.

Các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối đã tổ chức nhiều hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân thiết thực, hiệu quả và được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thường trực Đảng ủy Khối quan tâm, tới thăm, chúc tết cán bộ, người lao động… qua đó, tạo không khí tin tưởng, phấn khởi, tự hào và nỗ lực lao động, sản xuất ngay từ đầu năm.

Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Trung Hiếu, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối ghi nhận những đóng góp của các đồng chí cộng tác viên trong công tác tuyên giáo nói chung và công tác nắm bắt, định hướng dư luận xã hội tại doanh nghiệp, đơn vị trong thời gian qua; đồng thời đề nghị ban tuyên giáo các đảng ủy và đội ngũ cộng tác viên tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như: Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trong công tác Tuyên giáo năm 2024; tập trung chuẩn bị tốt các điều kiện Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tham mưu xây dựng các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; tích cực tuyên truyền, động viên, khuyến khích cán bộ, đảng viên tham gia các cuộc thi trực tuyến do Trung ương tổ chức; nắm chắc tình hình, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, người lao động;… nhằm kịp thời phản ánh, tham mưu với các cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp chỉ đạo, định hướng, giải quyết những vấn đề phát sinh, góp phần tạo sự thống nhất trong cấp ủy và đồng thuận trong cán bộ, đảng viên, người lao động tại các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

VNPT đấu giá thành công quyền sử dụng băng tần 3700 - 3800 MHz

Chiều ngày 19/3/2024, Bộ Thông tin & Truyền thông (TT&TT) tổ chức đấu giá quyền sử dụng tần số vô tuyến điện đối với khối băng tần C2 (3700 MHz - 3800 MHz).

Phiên đấu giá băng tần C2 (3700 MHz - 3800 MHz) bắt đầu lúc 14h25 phút. Sau 17 vòng đấu, doanh nghiệp có mã số 002 là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã trúng đấu giá quyền sử dụng tần số vô tuyến điện đối với khối băng tần C2 (3700 MHz - 3800 MHz).

Băng tần 3700-3800 MHz là dải băng tần tầm trung đang được nhiều nhà mạng lớn trên thế giới tìm kiếm và sử dụng nhờ lợi thế về băng thông lớn, tốc độ mạnh, đỗ trễ thấp cùng chi phí đầu tư hiệu quả, đáp ứng được các mạng lưới 5G tiên tiến nhất hiện nay.

Với VNPT, việc trúng đấu giá khối băng tần C2 có ý nghĩa rất quan trọng, cho phép VNPT nhiều lựa chọn thiết bị mạng, chi phí triển khai mạng 5G hợp lý nhất, đáp ứng chiến lược triển khai mạng 5G (VinaPhone) tốc độ cao nhất tại Việt Nam. Cùng với dải băng tần 3700 - 3800 MHz, VNPT cũng đang sở hữu dải băng tần 1800 MHz, đây sẽ là lợi thế lớn trong việc thúc đẩy mạng 5G trong thời gian tới, đồng thời tạo tiền đề cho việc phát triển mạng 6G trong tương lai.

Đại diện Tập đoàn VNPT cho biết, đấu giá băng tần là bước đầu theo quy định của Nhà nước về việc triển khai 5G tại Việt Nam. Sau khi trúng đấu giá băng tần 3700 - 3800 MHz, VNPT sẽ tích cực chuẩn bị để có thể sớm triển khai thương mại hóa 5G thành công. Đại diện VNPT cho biết thêm, để tăng cường hiệu quả triển khai 5G, VNPT sẽ triển khai mô hình hợp tác chia sẻ hạ tầng với nhà mạng trúng băng tần 3800-3900 MHz trong lần đấu giá lại sắp tới. Việc hợp tác này không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực của các nhà mạng mà còn đem lại cho khách hàng trải nghiệm tốt nhất với dịch vụ 5G.

Trong thời gian qua, VNPT đã có sự chuẩn bị một cách kỹ lưỡng và bài bản chiến lược phát triển hệ sinh thái các sản phẩm, dịch vụ số để có thể phát huy tối đa sức mạnh của 5G. Tập đoàn VNPT ưu tiên việc phát triển hạ tầng mạng 5G theo hướng nâng cao trải nghiệm của người dùng, đem đến tốc độ cao, dung lượng lớn, độ trễ thấp nhất mà vẫn tối ưu chi phí nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, gia tăng hiệu quả kinh doanh.

Ký kết các thỏa thuận thương mại cho chuỗi dự án Lô B - Ô Môn

Ngày 28/3/2024, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) cùng các đối tác tổ chức Lễ ký kết các thỏa thuận thương mại cho chuỗi dự án khí điện Lô B - Ô Môn.

Chuỗi dự án khí điện Lô B - Ô Môn có quy mô rất lớn tại Việt Nam, bao gồm nhiều dự án thành phần (dự án phát triển thượng nguồn, dự án đường ống và các dự án nhà máy điện ở hạ nguồn), với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư (từ các đối tác nước ngoài Nhật Bản và Thái Lan như: MOECO, PTTEP, Marubeni đến các nhà đầu tư Việt Nam như: Petrovietnam, PVEP, PV GAS, EVNGENCO2, WTO). Quy mô đầu tư toàn chuỗi dự án lên tới gần 12 tỷ USD.

Lô B, 48/95 và 52/97 (gọi tắt là Lô B) nằm ở khu vực ngoài khơi phía Tây Nam Việt Nam, thuộc khu vực vùng trũng Bể Malay - Thổ Chu vùng thềm lục địa Việt Nam, cách bờ biển Cà Mau khoảng 300 km, cách Trung tâm Điện lực Ô Môn khoảng 400 km, với độ sâu nước biển khoảng 77 mét.

Toàn bộ nguồn khí Lô B khai thác sẽ được vận chuyển bằng đường ống về khu vực quận Ô Môn, TP Cần Thơ cung cấp khí cho các Nhà máy điện Ô Môn I, Ô Môn II, Ô Môn III và Ô Môn IV (với tổng công suất khoảng 3.810 MW), ngoài ra còn có thể cấp bù khí cho khu vực Cà Mau. Trong giai đoạn bình ổn, Lô B sẽ cung cấp cho các nhà máy điện mỗi năm khoảng 5,06 tỷ m3 khí để sản xuất khoảng 22 tỷ kWh điện đáp ứng một phần nhu cầu về năng lượng cho phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.

Trước đó, ngày 30/10/2023, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cùng sự quyết tâm của Petrovietnam và toàn bộ các bên trong Chuỗi dự án, các bên liên quan trong Chuỗi dự án đã ký kết các Thỏa thuận khung, các Biên bản Thỏa thuận và trao thầu gói thầu số 1 EPC thượng nguồn. Trên cơ sở đó, ngày 28/3/2024, sau quá trình đàm phán trên tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ cũng như hợp tác cùng phát triển, Petrovietnam và các bên đã thống nhất ký kết các Thỏa thuận cho Chuỗi dự án.Đây là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng lớn của PVN và các bên đầu tư, đặc biệt là sự chỉ đạo quyết liệt và kịp thời của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc ký kết thành công các thỏa thuận cho Chuỗi dự án Khí Điện Lô B góp phần đảm bảo tiến độ chung cho toàn chuỗi dự án. Đồng thời, chuỗi dự án sẽ là nguồn lực quan trọng, là bước đệm để hỗ trợ thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26 với mục tiêu giảm phát thải carbon để ứng phó biến đổi khí hậu, và Quy hoạch điện VIII được xây dựng hướng tới một hệ thống năng lượng “xanh hơn”, “sạch hơn”, phù hợp với xu thế toàn cầu về chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ.

Theo lãnh đạo Tập đoàn, là một bên tham gia vào chuỗi dự án, Petrovietnam luôn coi việc đưa Dự án Lô B vào khai thác là nhiệm vụ rất quan trọng và cần được thực hiện thành công. Việc phát triển Dự án Lô B sẽ đóng góp một nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh thuộc khu vực Tây Nam Bộ, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Petrovietnam sẽ tiếp tục nỗ lực với quyết tâm cao nhất triển khai các hạng mục công việc trong chuỗi dự án theo đúng tinh thần chủ trương chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời, đảm bảo đồng bộ về tiến độ giữa các khâu, các dự án thành phần để đảm bảo hiệu quả kinh tế của chuỗi dự án, phấn đấu có dòng khí đầu tiên của dự án trong thời gian sớm nhất.

EVN và các đơn vị tích cực hưởng ứng chiến dịch "Giờ trái đất" 2024

Chiến dịch “Giờ trái đất” năm 2024 tại Việt Nam vừa được diễn ra đã thu hút sự quan tâm, hưởng ứng của 63 tỉnh thành phố cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân, trong đó Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một trong những đơn vị điển hình luôn quan tâm và tích cực phối hợp để thực hiện tốt chương trình. Năm 2024 cũng là lần thứ 16 Việt Nam tích cực tham gia hưởng ứng chương trình.

Trên tinh thần tích cực hưởng ứng chiến dịch “Giờ trái đất”, tận dụng sức mạnh lan tỏa cộng đồng của internet, chuyển đổi số và mạng xã hội, EVN đã yêu cầu các đơn vị cùng đăng tải các nội dung tuyên truyền về tiết kiệm điện và bảo vệ môi trường hưởng ứng chiến dịch “Giờ trái đất” 2024 trên các kênh truyền thông số của Tập đoàn EVN và của các đơn vị như: website, zalo, Facebook, Tiktok, Youtube…, với hình thức thể hiện phong phú, hấp dẫn, thu hút người đọc/người xem như Infograpfic, ảnh, video clip...

Tập đoàn cũng yêu cầu các Tổng công ty Điện lực, Công ty Điện lực các tỉnh, thành phố tổ chức tuyên truyền các nội dung về tiết kiệm điện và bảo vệ môi trường tại các địa điểm giao dịch khách hàng, trụ sở của các đơn vị. Đồng thời, vận động các tổ chức, cơ quan và khách hàng thực hiện tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết vào thời gian hưởng ứng “Giờ trái đất”.  Qua số liệu về mức tiêu thụ điện toàn quốc, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia cho biết: Sau 1 giờ tắt đèn hưởng ứng chiến dịch “Giờ trái đất” 2024 (từ 20h30 đến 21h30 ngày 23/3/2024), cả nước đã tiết kiệm được sản lượng điện là 428.000 kWh (tương đương số tiền khoảng 858,9 triệu đồng).

Sau 16 năm tích cực hưởng ứng tham gia, chiến dịch “Giờ trái đất” tại Việt Nam ngày càng được lan tỏa rộng rãi trên cả nước và trở thành hoạt động thường niên rất có ý nghĩa vào tháng 3 hàng năm. Từ việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đến nay chiến dịch “Giờ trái đất” đã góp phần quan trọng biến nhận thức của mỗi cá nhân thành hành động cụ thể trong việc thực hành tiết kiệm điện, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường.

Vietnam Airlines dự kiến kết nối internet trên máy bay

Vietnam Airlines và VNPT đã ký kết hợp tác triển khai dịch vụ kết nối internet trên máy bay (IFC - InFlight Connectivity). Sự kiện đánh dấu bước tiến mới của Hãng hàng không Quốc gia trong hành trình chuyển đổi số và nâng tầm dịch vụ.

Theo đó, Hãng hàng không Quốc gia dự kiến triển khai kết nối internet trên không cho một số máy bay của hãng trong năm 2025 trên các chặng bay quốc tế đi Mỹ, châu Âu và một số chặng bay nội địa. Các máy bay, chặng bay còn lại tiếp tục được triển khai từ năm 2026.VNPT sẽ phối hợp cùng Vietnam Airlines để xây dựng lộ trình, hoàn thiện thủ tục, lắp đặt phần cứng, thiết lập phần mềm và hỗ trợ vận hành, khai thác. Với những tiến bộ về công nghệ, dự kiến tốc độ của mạng internet trên máy bay của Vietnam Airlines có thể lên tới 60 Mbps.

Với dịch vụ mới này, hành khách của Vietnam Airlines sẽ được tận hưởng những trải nghiệm thú vị trong suốt hành trình bay khi có thể nhắn tin với bạn bè, nghe podcast, đọc sách, xem phim theo nhu cầu cá nhân… Bên cạnh đó, dịch vụ tạo thuận lợi cho những người cần làm việc trong thời gian ở trên không.

Lãnh đạo Vietnam Airlines cho biết,việc triển khai dịch vụ internet trên máy bay sẽ là sản phẩm đột phá, nâng tầm dịch vụ, mang đến trải nghiệm ấn tượng cho hành khách và góp phần đưa Vietnam Airlines sớm đạt mục tiêu trở thành Hãng hàng không công nghệ số hàng đầu khu vực.

Kết nối internet trên không có thể coi là một trong những bước đi quan trọng nữa trong hành trình chuyển đối số của Vietnam Airlines, góp phần nâng cao trải nghiệm khách hàng, củng cố năng lực cạnh tranh với các hãng hàng không 5 sao trên thế giới. Hiện có hơn 1.000 máy bay thương mại trên toàn thế giới được trang bị IFC, và dự kiến sẽ tăng lên hơn 24.000 máy bay vào năm 2035. Nhiều hãng hàng không lớn trên thế giới đã triển khai dịch vụ internet trên không như Emirates, Qatar Airways, Singapore Airlines, Etihad Airways, Turkish Airlines, United Airlines, American Airlines, Delta Air Lines, Lufthansa, Air France.

Tập đoàn Bảo Việt: Lợi nhuận sau thuế hợp nhất đạt 1.798 tỷ đồng, tăng trưởng 10,6%

Vừa qua, Tập đoàn Bảo Việt công bố kết quả kinh doanh năm 2023 (trước kiểm toán), theo đó Công ty Mẹ và các đơn vị thành viên ghi nhận mức tăng trưởng khả quan với tổng doanh thu hợp nhất đạt 57.899 tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm 2022, hoàn thành kế hoạch năm.

Lợi nhuận trước thuế và sau thuế hợp nhất lần lượt đạt 2.160 tỷ đồng và 1.798 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế hợp nhất của tập đoàn hoàn thành 112% kế hoạch năm, tăng trưởng 10,6% so với năm 2022. Tổng tài sản hợp nhất tại 31/12/2023 gần 9 tỷ USD, tương đương 221.206 tỷ đồng, tăng 9,7% so với thời điểm 31/12/2022. Tổng doanh thu Công ty Mẹ đạt 1.577 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 1.120 tỷ đồng, tăng trưởng lần lượt 1% và 1,6% so với năm 2022. Tổng tài sản Công ty Mẹ đạt 18.371 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu đạt 17.672 tỷ đồng tại ngày 31/12/2023.

Trong năm 2023, Tập đoàn Bảo Việt đã chi trả cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 9,54% trên mệnh giá cổ phiếu, tương đương tổng số tiền chi trả hơn 708 tỷ đồng cho các cổ đông. Như vậy, tổng số tiền chi trả cổ tức cho cổ đông của BVH từ khi cổ phần hóa (năm 2007) đến nay lên tới 12.400 tỷ đồng. Với tiềm lực tài chính mạnh, quy mô vốn và tài sản hàng đầu trong các doanh nghiệp bảo hiểm, Bảo Việt luôn thực hiện các cam kết với cổ đông, gia tăng giá trị cho nhà đầu tư.

Vietcombank tài trợ 500 triệu đồng xây nhà cho người nghèo và kinh phí mua trang thiết bị trường học tại tỉnh Lào Cai

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ “Chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, tăng cường huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo; vừa qua, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã trao tài trợ xây nhà cho người nghèo tại Huyện Bảo Thắng và kinh phí mua trang thiết bị trường học cho Trường tiểu học Tà Chải, xã Tà Chải, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai; góp phần chung tay hỗ trợ địa phương trong công tác xóa đói giảm nghèo, hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới; giúp đỡ các trường học trang bị đầy đủ thiết bị phục vụ công tác giảng dạy, học tập. Tại đây, Vietcombank trao tài trợ xây nhà cho người nghèo tại huyện Bảo Thắng cho 6 hộ gia đình với tổng trị giá 300 triệu đồng cùng những phần quà tết đầy ý nghĩa nhằm động viên và chia sẻ phần nào khó khăn cho các gia đình, mang đến một cái Tết ấm no trọn vẹn hơn.

Cũng trong dịp này, Vietcombank trao tài trợ 200 triệu đồng kinh phí mua trang thiết bị trường học cho Trường tiểu học Tà Chải, xã Tà Chải, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai để thầy cô và nhà trường tiếp tục khắc phục khó khăn, tạo điều kiện học tập tốt hơn cho các em học sinh.

Phát biểu tại buổi lễ, đại diện lãnh đạo Vietcombank chia sẻ: Không chỉ là ngân hàng số 1 tại Việt Nam về tốc độ tăng trưởng quy mô cũng như hiệu quả hoạt động, Vietcombank còn tích cực tham gia các chương trình an sinh xã hội ý nghĩa, giúp đỡ những địa phương nghèo, chung tay vì cộng đồng. Từ năm 2020 đến nay, trên địa bàn Lào Cai, Vietcombank luôn chú trọng làm công tác an sinh xã hội ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, hỗ trợ các vùng khó khăn, với tổng số tiền lên tới 21,5 tỷ đồng. Và lần này, thông qua sự kết nối của địa phương, lãnh đạo huyện, Vietcombank vinh dự được tham gia hỗ trợ xây nhà cho người nghèo tại Huyện Bảo Thắng và kinh phí mua trang thiết bị trường học cho Trường tiểu học Tà Chải, xã Tà Chải, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Đây là tấm lòng của toàn thể cán bộ Trụ sở chính và Vietcombank chi nhánh Lào Cai với mong muốn được đóng góp vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở địa phương. Hy vọng với sự đóng góp nhỏ bé này sẽ góp phần nâng cao đời sống của người dân cũng như tạo điều kiện cho các em học sinh có cơ hội tiếp cận điều kiện giáo dục tốt hơn.

Đại diện lãnh đạo chính quyền hai huyện Bảo Thắng và Bắc Hà dành những lời cảm ơn chân thành, ghi nhận sự đóng góp quan tâm và ủng hộ của Vietcombank trong suốt thời gian qua, cùng chung tay chung sức với địa phương trong công tác an sinh xã hội. Sự ủng hộ của đơn vị là nguồn động viên tích cực cho các hộ gia đình vươn lên xóa đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng phòng học trường học khang trang hơn. Hai huyện mong muốn sẽ tiếp tục được nhận sự quan tâm của Vietcombank trong thời gian tới, giúp các hộ gia đình tiếp tục phấn đấu phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo bền vững; các thầy cô và nhà trường tiếp tục khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ để cống hiến sự nghiệp trồng người.

II - TIN THAM KHẢO

Việt Nam có quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với 07 nước

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra các nhiệm vụ cho công tác đối ngoại là “Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của đất nước; đồng thời đóng góp vào phong trào đấu tranh chung của các lực lượng tiến bộ trên thế giới”. Đại hội đã xác định: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả; xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Ngày 07/3/2024, trong chuyến thăm chính thức đến Australia, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thủ tướng Australia Anthony Albanese đã cùng công bố nâng cấp quan hệ song phương lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai nước. Như vậy, Australia đã trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện thứ 7 của Việt Nam (sau Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản).

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Trung Quốc (5/2008):

Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 18/01/1950. Kể từ đó đến nay, quan hệ hai nước phát triển ổn định với dòng chảy chính là hữu nghị và hợp tác. Hai bên đã xác định phát triển quan hệ hai nước theo phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) và tinh thần “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005).

Kể từ sau khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, hơn 15 năm qua, quan hệ giữa hai Đảng, hai nước luôn duy trì xu thế không ngừng phát triển theo hướng lành mạnh, ổn định. Sự tin cậy chính trị giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước Trung Quốc và Việt Nam không ngừng đi vào chiều sâu và được củng cố.Trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc vào ngày 30/10 và 01/11/2022 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã ra “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc về tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc” với nội dung rất phong phú và quan trọng.

Tháng 12/2023, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, hai bên đã ra “Tuyên bố chung nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược”.

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga (7/2012):

 Quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây và với Liên bang Nga ngày nay là một mối quan hệ luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và sự biến động của thời đại. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 30/01/1950. Hai nước ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Liên bang Nga vào ngày 16/6/1994, đưa quan hệ song phương vào giai đoạn phát triển mới.

Ngày 28/02 - 02/3/2001, trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Vladimir Putin, hai nước đã ký Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược.Tháng 7/2012, nhân chuyến thăm chính thức Liên bang Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, với mục đích và mong muốn đưa quan hệ song phương ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả, hai nước đã quyết định nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện. Đây là dấu mốc rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước.

Trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga đã có những bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực.

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ (9/2016):

Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó lâu đời, được các thế hệ lãnh đạo hai nước gìn giữ, vun đắp và liên tục phát triển. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngày 7/01/1972.Hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2007. Sau đó, vào tháng 9/2016, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, hai nước đã nhất trí nâng cấp lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện.

Kể từ dấu mốc này, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Ấn Độ ngày càng phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu. Ấn Độ là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn của Ấn Độ trên toàn cầu và trong khu vực ASEAN.

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc (12/2022):

Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 22/12/1992. Quan hệ giữa hai nước có nền tảng vững chắc dựa trên nhiều nét tương đồng về truyền thống, văn hóa, lịch sử, cơ cấu kinh tế bổ sung cho nhau, đặc biệt là tình cảm hữu nghị và sự nỗ lực hướng tới tương lai của chính phủ và nhân dân hai nước.Tháng 8/2001, hai nước ra Tuyên bố chung về “Quan hệ Đối tác toàn diện thế kỷ XXI” nhân chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương.Tháng 10/2009, quan hệ hai nước được nâng cấp lên thành “Đối tác hợp tác chiến lược” nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myeong Bak.

Tháng 12/2022, nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên tầm cao mới khi nâng lên thành “Đối tác Chiến lược Toàn diện”. Đây là bước phát triển mới, tạo khuôn khổ mới cho việc nâng tầm hợp tác trên nhiều lĩnh vực, như hình thành nên các chuỗi cung ứng và mở rộng hợp tác sang lĩnh vực khoáng sản, quốc phòng, an ninh, văn hóa…

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ (9/2023):

Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức thiết lập quan hệ vào ngày 12/7/1995. Đây là một dấu mốc lịch sử đặc biệt quan trọng, mở ra chương mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Hai nước thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện vào tháng 7/2013 nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.10 năm sau, trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden (ngày 10 và 11/9/2023), hai nước đã nâng tầm quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ dựa trên cơ sở tôn trọng đầy đủ những nguyên tắc cơ bản, định hướng quan hệ hai nước thời gian qua, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Các nội hàm của mối quan hệ hợp tác mới sẽ kế thừa những nội dung hợp tác đã có giữa hai nước và đưa lên tầm cao mới thông qua việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại - đầu tư theo hướng đổi mới sáng tạo là nền tảng, trọng tâm và động lực của quan hệ hai nước; tăng cường hợp tác khoa học - công nghệ là đột phá mới của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thì khẳng định, việc hai nước nâng cấp quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện là bước đi quan trọng, làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực công nghệ trọng yếu và mới nổi, đặc biệt là trong việc xây dựng một chuỗi cung ứng có khả năng chống chịu tốt hơn cho ngành công nghiệp bán dẫn; mở rộng mối quan hệ đối tác kinh tế nhằm thúc đẩy hơn nữa đầu tư và thương mại giữa hai nước; thúc đẩy trao đổi giáo dục.

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (11/2023):

 Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973. Kể từ đó, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng được củng cố và phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực.Khuôn khổ quan hệ giữa hai nước đã liên tục được nâng cấp, từ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (năm 2002) lên “Quan hệ Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” (năm 2009) và “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng của châu Á” (năm 2014). Đặc biệt, tháng 11/2023, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới”. Nhà lãnh đạo hai nước nhấn mạnh các nguyên tắc nền tảng định hướng quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, bao gồm tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ luật pháp quốc tế và tôn trọng các thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước; đồng thời khẳng định mong muốn cùng thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực lên tầm cao mới và mở rộng sang những lĩnh vực hợp tác mới.

- Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Australia (3/2024):

 Việt Nam và Australia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 26/2/1973. Hai bên nâng cấp quan hệ song phương lên mức Đối tác toàn diện vào năm 2009 và ký Tuyên bố về quan hệ Đối tác toàn diện tăng cường vào năm 2015.Tháng 3/2018, nhân chuyến thăm chính thức Australia của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược.

Ngày 07/3/2024, trong chuyến thăm chính thức Australia của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, hai nước đã công bố thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Australia. Việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện nhằm thúc đẩy hợp tác giữa hai nước sâu rộng, thực chất, hiệu quả trên các lĩnh vực như: chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, thương mại đầu tư, nông nghiệp, quốc phòng, giáo dục, đào tạo…

Theo Thủ tướng Australia Anthony Albanese, với việc nâng quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, hợp tác giữa hai nước có thêm một số trụ cột về hợp tác chống biến đổi khí hậu, môi trường và hợp tác về năng lượng, trong khi cả Australia và Việt Nam đều có cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.Hai bên cũng thiết lập cơ chế đối thoại thường niên giữa các Bộ trưởng về thương mại; thỏa thuận tăng cường giám sát tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường biển; đưa chuyển đổi số, hợp tác khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thành một trụ cột mới trong mối quan hệ hai nước.

Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lúa, gạo bền vững, minh bạch, hiệu quả trong tình hình mới

Năm 2023, thị trường lương thực toàn cầu có nhiều biến động bất thường nhưng chúng ta đã đạt được kết quả đáng ghi nhận cả về sản xuất và xuất khẩu (Xuất khẩu trên 8,1 triệu tấn gạo, trị giá gần 4,7 tỷ USD, tăng 14,4% về lượng và 35,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022 và là mức cao nhất trong 16 năm qua), góp phần quan trọng đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành hàng lúa gạo nước ta còn một số tồn tại, hạn chế cần sớm có giải pháp khắc phục như: chưa chủ động được nguồn vật tư đầu vào, giá cả chưa được kiểm soát chặt chẽ, luôn ở mức cao, tỷ lệ cơ giới hóa ở nhiều khâu sản xuất thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất và tính cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo nước ta; chuỗi liên kết sản xuất giữa người nông dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ, thiếu tính bền vững; chưa đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, vẫn phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống.

Để đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo lành mạnh, minh bạch, phản ứng linh hoạt, kịp thời trong tình hình thị trường có nhiều biến động, hướng đến phát triển ngành lúa gạo bền vững, hiệu quả cao, nâng cao thu nhập cho người trồng lúa, tại Chỉ thị số 10/CT-TTg, ngày 02/3/2024, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung chỉ đạo, quyết liệt thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Tổ chức thu hoạch lúa vụ Đông Xuân theo đúng thời vụ, giảm thiểu đến mức thấp nhất tổn thất sau thu hoạch; kịp thời cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về diễn biến thị trường lúa, gạo để người dân, doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp, đảm bảo nguồn cung phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, ổn định giá cả thị trường. Triển khai có hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”.

Đẩy nhanh việc xây dựng, nhân rộng các mô hình chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cho các hợp tác xã nông nghiệp trong việc tổ chức sản xuất, cung ứng các dịch vụ đầu vào, tiêu thụ lúa, gạo. Đẩy mạnh tập huấn trang bị kiến thức cho nông dân về thị trường, kinh doanh nông nghiệp, chuyển đổi tư duy, áp dụng tiến bộ khoa học trong sản xuất, chế biến, kinh doanh nông nghiệp. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng vật tư đầu vào phục vụ sản xuất lúa gạo, nhất là giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc thiết bị. Đẩy mạnh đàm phán, tháo gỡ các rào cản kỹ thuật để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo, đảm bảo tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật; theo dõi sát tình hình thị trường, thương mại gạo thế giới, động thái của các nước sản xuất, xuất khẩu, kịp thời điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu gạo, bảo đảm phù hợp, hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tạo môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, công bằng, thuận lợi và đảm bảo lợi ích chính đáng của người nông dân trồng lúa, giữ uy tín cho mặt hàng gạo của Việt Nam; nghiên cứu tinh giản đầu mối xuất khẩu gạo, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh nhưng không quá phân tán, hiệu quả kinh doanh, uy tín của gạo Việt Nam. Đẩy mạnh các hoạt động phát triển thị trường và xúc tiến thương mại, thúc đẩy lưu thông, tiêu thụ mặt hàng gạo.

Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hiệu quả chuỗi cung ứng gạo gắn với dịch vụ logistics ra thị trường quốc tế; thúc đẩy việc triển khai sàn giao dịch hàng hóa nông sản, trong đó có sàn giao dịch thóc gạo để đảm bảo công khai, minh bạch trong kinh doanh lúa, gạo. Nghiên cứu xây dựng thí điểm các mô hình đưa các “thương lái” vào chuỗi giá trị ngành hàng lúa, gạo để vừa phát huy vai trò là cầu nối giữa người dân và doanh nghiệp, vừa hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia chuỗi giá trị. Nghiên cứu, xử lý vướng mắc về hoàn thuế VAT theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Có phương án mua dự trữ gạo phù hợp, hiệu quả, đúng quy định. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi, đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng phục vụ thu mua lúa và xuất khẩu gạo, nhất là thu mua lúa hàng hóa vụ Đông Xuân 2023 - 2024 tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 135/QĐ-TTg, ngày 31/01/2024 về Kế hoạch triển khai thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó có một số nội dung chủ yếu sau:

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tạo đồng thuận xã hội, các ngành, các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị về việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW khóa XII, Kết luận số 64-KL/TW và Nghị quyết số 104/2023/QH15; quán triệt thống nhất nhận thức, đồng thuận trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW. Báo cáo cấp có thẩm quyền thông qua danh mục vị trí việc làm cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ trung ương đến cấp xã.

Ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành Danh mục chức danh, chức vụ tương đương thuộc phạm vi quản lý để làm căn cứ thực hiện chính sách tiền lương mới, gồm: xây dựng Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong lực lượng vũ trang; rà soát sắp xếp các chức danh, chức vụ theo phân cấp quản lý cán bộ bảo đảm đồng bộ, thống nhất với Danh mục Bộ Chính trị ban hành tại Kết luận số 35-KL/TW của Bộ Chính trị; bảo đảm kế thừa, ổn định trong tổ chức bộ máy; chỉ điều chuyển những vị trí thực sự bất hợp lý hoặc chưa được sắp xếp; một người đảm nhiệm nhiều chức vụ thì lấy chức vụ cao nhất để xác định chức danh tương đương.

Xây dựng Tờ trình về các nội dung cụ thể của chế độ tiền lương mới, tác động khi cải cách tiền lương đến chính sách bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội; xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy định về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, gồm: Xây dựng 3 bảng lương và phụ cấp đối với lực lượng vũ trang; hoàn thiện quy định về cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập cho phù hợp với chế độ tiền lương mới; xây dựng Nghị định của Chính phủ về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; xây dựng Quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Đảng, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Xây dựng Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các chuyên ngành Tòa án, Kiểm sát và Kiểm toán; xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ tiền lương mới theo thẩm quyền được giao tại Quyết định của Ban Bí thư, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ về chế độ tiền lương mới.

Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy định chính sách tiền lương mới đối với khu vực doanh nghiệp, gồm: Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia theo quy định của Bộ luật Lao động. Ban hành Nghị định về quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với doanh nghiệp nhà nước; tập huấn, hướng dẫn thực hiện các quy định tại Quyết định của Ban Bí thư, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ về chế độ tiền lương mới.

Tiếp tục thực hiện việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo gắn với cải cách chính sách tiền lương theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII và Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII.

Một số chỉ tiêu chiến lược ngành Xây dựng

Chiến lược phát triển ngành Xây dựng đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 được phê duyệt bởi Quyết định số 179/QĐ-TTg, ngày 16/02/2024, nêu một số chỉ tiêu quan trọng để phấn đấu thực hiện, nổi bật là: 

Hoàn thành rà soát, cơ bản phủ kín quy hoạch phân khu các khu vực trung tâm, khu vực dự kiến phát triển và khu vực dự kiến thành lập mới đơn vị hành chính đô thị (quận, phường). Quy hoạch xây dựng nông thôn: rà soát, điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng xã để thực hiện mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 là ít nhất 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, không còn xã đạt dưới 15 tiêu chí. Đến năm 2025, các đô thị hoàn thành xây dựng Quy chế quản lý kiến trúc; phấn đấu đến năm 2030, 80% các đô thị và điểm dân cư nông thôn có Quy chế quản lý kiến trúc được phê duyệt, ban hành.

Thực hiện đồng bộ các chính sách giải nén, giảm tải cho các đô thị lớn, đưa người dân ra các đô thị xung quanh đã hình thành đầy đủ các thiết chế văn hóa, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; tập trung thúc đẩy hệ thống hạ tầng cơ sở, dịch vụ tại các đô thị vệ tinh, mô hình thành phố trực thuộc thành phố, đảm bảo các đô thị giữ vai trò trung tâm phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp của địa phương, từng vùng và cả nước. Ưu tiên phát triển các đô thị nhỏ (loại V) và vùng ven đô để hỗ trợ phát triển nông thôn thông qua các mối liên kết đô thị - nông thôn. Kiểm soát phát triển đô thị mật độ thấp tại các đô thị loại II trở lên; tập trung phát triển đô thị theo chiều sâu và nâng cao chất lượng môi trường sống của người dân.

Triển khai hiệu quả các đề án, chương trình quốc gia về phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; cải tạo, chỉnh trang, tái thiết và nâng cấp đô thị; phát triển các mô hình đô thị mới phù hợp với thực tiễn, chú trọng mô hình phát triển đô thị theo định hướng giao thông. Nghiên cứu, xây dựng tiêu chí xác định và phát triển các khu đô thị có vị trí, chức năng đặc thù, nổi trội như phát triển đại học, trung tâm sáng tạo, kinh tế cửa khẩu, công nghiệp, đảo, cảng, sân bay; đô thị gắn với phát triển TOD, đô thị xanh, đô thị thông minh, đô thị phát triển bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu và đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển riêng phù hợp.

Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt tối thiểu 45%, đến năm 2030 đạt trên 50%. Tỷ lệ đất xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 1,5 -1,9% vào năm 2025, đến năm 2030 đạt khoảng 1,9 - 2,3%. Số lượng đô thị toàn quốc đến năm 2025 khoảng 950 - 1.000 đô thị, đến năm 2030 khoảng 1.000 - 1.200 đô thị. Đến năm 2025, 100% các đô thị hiện có và đô thị mới có quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, chương trình cải tạo, chỉnh trang, tái thiết và phát triển đô thị; bảo đảm tối thiểu 100% đô thị loại III trở lên hoàn thiện tiêu chí phân loại đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hoá cấp đô thị. Đến năm 2030, hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN.

Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp vùng, liên vùng; hoàn thiện khung pháp lý cho quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị.Thực hiện đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm tại các đô thị lớn, tập trung cho các lĩnh vực giao thông đô thị, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải đô thị. Đẩy nhanh tiến  độ xây dựng hệ thống giao thông công cộng khối lượng lớn tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt đối với các tuyến đường sắt đô thị.

Tăng cường công tác kiểm soát, quản lý xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch. Khuyến khích sử dụng vật liệu xanh, xây dựng và phát triển hạ tầng xanh, công trình xanh, tiêu thụ năng lượng xanh tại đô thị. Tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là tại đồng bằng sông Cửu Long. Đẩy mạnh quản lý phát triển không gian ngầm đô thị, nhất là công tác quy hoạch không gian ngầm ở các thành phố trực thuộc trung ương.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đổi mới phương thức, mô hình quản lý và phát triển nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp. Cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng, cải tạo nhà ở phù hợp với quy hoạch đô thị và quy chế quản lý kiến trúc đô thị.

Tập trung giải quyết cơ bản nhu cầu về nhà ở cho người dân, đặc biệt là các hộ gia đình nghèo, cán bộ, công chức, viên chức và các đối tượng chính sách xã hội có khó khăn về nhà ở. Bố trí hợp lý khu dân cư và hỗ trợ phát triển nhà ở cho người dân tại các vùng thường xuyên chịu tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu.

Khai thác, sử dụng bất động sản hiệu quả, đặc biệt là bất động sản đất đai, khai thác tối đa nguồn lực từ đất đai, nhà và công trình trên đất phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển đa dạng các loại bất động sản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cân đối cung - cầu của từng phân khúc, từng địa phương và trong từng giai đoạn. Thu hút các nguồn lực xã hội, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hàng hóa bất động sản, đặc biệt là đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ, các công trình sản xuất, kinh doanh, các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tại các đô thị.

IV - VĂN BẢN, QUYẾT ĐỊNH MỚI

Một số nhiệm vụ trọng tâm của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước

Theo thống kê, tổng doanh thu ước thực hiện năm 2023 của doanh nghiệp nhà nước khoảng 1.652 triệu tỷ đồng, vượt 4% kế hoạch năm 2023; lợi nhuận trước thuế khoảng 125,8 triệu tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm; đóng góp ngân sách nhà nước ước thực hiện khoảng 166 triệu tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, chi phối, chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đóng góp thiết thực vào xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Để tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, tại Chỉ thị số 07/CT-TTg, ngày 22/02/2024, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước triển khai các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao là quản lý vốn, tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là trách nhiệm của Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khẩn trương triển khai có kết quả và hiệu quả Đề án Cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2025; Chiến lược phát triển, Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển hàng năm và 05 năm của doanh nghiệp đã được phê duyệt; các chỉ đạo liên quan của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư lớn, trọng điểm của quốc gia trong các lĩnh vực quan trọng theo chiến lược, kế hoạch được cấp có thẩm quyền và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; ưu tiên tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chính, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, không hiệu quả; nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo; đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp. Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh được giao, góp phần cao nhất bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho người lao động, thực hiện chính sách an sinh xã hội.

Tiếp tục phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là lực lượng tiên phong dẫn đầu trong trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phục hồi nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, an toàn trong triển khai thi công các công trình hạ tầng giao thông quan trọng quốc gia như: tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông, các đường cao tốc trục Đông Tây, các trục cao tốc kết nối các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần thực hiện mục tiêu Đại hội XIII của Đảng, phấn đấu hoàn thành trên 3.000km đường bộ cao tốc vào năm 2025 và trên 5.000km đường bộ cao tốc vào năm 2030.

Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội (Viettel), VNPT, Mobifone, Tổng công ty công nghệ - viễn thông toàn cầu (GTEL)... tiếp tục thúc đẩy các dự án đầu tư phát triển và phổ cập hạ tầng viễn thông truyền thống sang hạ tầng số; phát triển hạ tầng trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây, hạ tầng công nghệ số và nền tảng số, ứng dụng số nhằm tạo động lực phát triển kinh tế số; đồng thời đóng vai trò dẫn dắt, đi đầu trong việc nghiên cứu công nghệ mới nổi (chip bán dẫn...).

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đường dây 500KV mạch 3 từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên), phấn đấu đưa vào khai thác trong tháng 6 năm 2024. EVN, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và đơn vị trực thuộc triển khai kịp thời, hiệu quả Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện VIII) theo quy định, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đủ điện cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của Nhân dân. EVN, PVN chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc phát sinh trong phát triển các dự án nhiệt điện khí để vừa góp phần thúc đẩy tiến độ đầu tư các dự án nguồn điện khí và các dự án khai thác khí.

PVN tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án có quy mô lớn để sớm đưa vào khai thác, phát triển dự án điện - khí gắn với thực hiện hiệu quả Đề án triển khai kết quả COP26; tập trung giải pháp thúc đẩy Dự án Nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, góp phần bảo đảm nguồn cung xăng dầu trong nước ổn định, bền vững; khẩn trương phối hợp với các bên liên quan để thực hiện tái cấu trúc Công ty; tập trung xử lý sớm, dứt điểm các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, thua lỗ, kém hiệu quả thuộc PVN (Trong đó Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Dung Quất) để có nguồn lực đầu tư lĩnh vực trọng tâm. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam cùng các doanh nghiệp nhà nước tăng khả năng dự báo diễn biến giá thị trường thế giới, chủ động phương án bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho nền kinh tế và giảm thiểu bất lợi do biến động về giá xăng dầu thế giới.

Các doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý khai thác hệ thống hạ tầng nông nghiệp là các công trình thủy lợi tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ tưới, tiêu ứng phó hạn hán xâm nhập mặn để hỗ trợ phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và đẩy mạnh xuất khẩu. Tổng công ty Lương thực miền Bắc, Tổng công ty Lương thực miền Nam chủ động, tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, tiếp tục phát huy thế mạnh sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm từ mủ cao su; đẩy mạnh hoạt động chế biến xuất khẩu gỗ, đồ gỗ. Các công ty cung cấp dịch vụ khai thác hải sản tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ hậu cần cho ngư dân bám biển xa bờ, phát triển kinh tế biển.

Các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh tiếp tục phát huy kết quả, thành tích năm 2023, phấn đấu hoàn thành vượt kế hoạch được giao năm 2024, bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Các doanh nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ công ích tại các địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ cung ứng các dịch vụ công ích, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Các Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng phát triển hạ tầng đô thị, nhà ở đô thị đẩy mạnh phát triển các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân; góp phần triển khai nhanh, hiệu quả Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030”, năm 2024 nỗ lực phấn đấu hoàn thành 130 nghìn căn hộ.

Các ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục rà soát, đơn giản thủ tục cho vay, giải ngân, đúng quy định, tiết giảm chi phí, phấn đấu giảm lãi suất cho vay, bảo đảm chi phí lãi vay hợp lý nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) phối hợp, tham gia cùng với các doanh nghiệp nhà nước tăng cường đầu tư vào các dự án hạ tầng quan trọng quốc gia, các lĩnh vực mới, bảo đảm có hiệu quả, góp phần phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. SCIC, Công ty TNHH MTV Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) thực hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh gắn với việc thúc đẩy, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước thuộc đối tượng bàn giao về các đơn vị này theo quy định.

Tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (01/5/1904 - 01/5/2024)

Thực hiện Hướng dẫn số 69-HD/BTGTW, ngày 20/9/2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương về tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong 3 năm (2023 - 2025); Hướng dẫn số 147-HD/BTGTW, ngày 21/3/2024 về tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (01/5/1904 - 01/5/2024); Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã có Hướng dẫn số 16-HD/BTGĐUK, ngày 17/01/2024 của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối về tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong năm 2024.

Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối đề nghị các đảng ủy trực thuộc tập trung tuyên truyền về thân thế, cuộc đời hoạt động và những cống hiến to lớn của đồng chí Trần Phú đối với Đảng và cách mạng Việt Nam, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là những đóng góp quan trọng trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Ý nghĩa và giá trị của Bản Luận cương Chính trị năm 1930 do đồng chí Trần Phú khởi thảo và các văn kiện của Đảng ta trong thời kỳ đồng chí làm Tổng Bí thư; các nhiệm vụ xây dựng văn kiện cho Đại hội XIV của Đảng trong phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ nhất Tiểu ban văn kiện; kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nhất là những kết quả từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay. Những thành tựu và kết quả sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng; sự nỗ lực của các cấp, các ngành và vai trò đóng góp to lớn của các tầng lớp Nhân dân.

Chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động thông tin, tuyên truyền bảo đảm thiết thực, phù hợp địa bàn, đối tượng; hướng dẫn tuyên truyền sự kiện trên báo chí, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm tuyên truyền khác của đơn vị.

Nội dung Đề cương tuyên truyền xem tại đây.

Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954 - 21/7/2024)

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Công văn số 4571-CV/VPTW, ngày 19/8/2022 của Văn phòng Trung ương Đảng về việc tổ chức kỷ niệm một số ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong 3 năm (2023 - 2025); Hướng dẫn số 146-HD/BTGTW, ngày 18/3/2024 của Ban Tuyên giáo Trung ương về tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954 - 21/7/2024); Hướng dẫn số 16-HD/BTGĐUK, ngày 17/01/2024 của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối về tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong năm 2024, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối DNTW đề nghị các đảng ủy trực thuộc tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng bộ, giúp cán bộ, đảng viên và người lao động nhận thức sâu sắc về đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc, đặc biệt là trên mặt trận ngoại giao, góp phần mở ra cục diện mới cho cách mạng Việt Nam; qua đó củng cố niềm tin, kế thừa, phát huy cao độ những bài học kinh nghiệm từ việc đàm phán, ký Hiệp định Giơnevơ trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nội dung Đề cương tuyên truyền xem tại đây.

Nghị định 12/2024/NĐ-CP, ngày 05/02/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 44/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định về giá đất và Nghị định 10/2023/NĐ-CP, ngày 03/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.

Nghị định 12/2024/NĐ-CP sửa đổi Điều 4, Điều 5 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP về phương pháp định giá đất và điều kiện áp dụng từng phương pháp đó. Phương pháp so sánh được thực hiện bằng cách điều chỉnh mức giá của các thửa đất có cùng mục đích sử dụng đất, tương đồng nhất định về các yếu tố có ảnh hưởng đến giá đất đã chuyển nhượng trên thị trường, đã trúng đấu giá quyền sử dụng đất mà người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quyết định trúng đấu giá thông qua việc phân tích, so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất sau khi đã loại trừ giá trị tài sản gắn liền với đất (nếu có) để xác định giá của thửa đất cần định giá.

Phương pháp so sánh được áp dụng để định giá đối với trường hợp có tối thiểu 03 thửa đất có cùng mục đích sử dụng đất, tương đồng nhất định về các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất mà người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quyết định trúng đấu giá. Phương pháp thu nhập được thực hiện bằng cách lấy thu nhập ròng bình quân năm trên một diện tích đất chia cho lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân của loại tiền gửi bằng tiền Việt Nam kỳ hạn 12 tháng tại các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trên địa bàn cấp tỉnh của 03 năm liền kề tính đến hết quý gần nhất có số liệu trước thời điểm định giá. Phương pháp thu nhập được áp dụng để định giá đối với trường hợp thửa đất, khu đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở mà thửa đất, khu đất cần định giá không đủ điều kiện áp dụng phương pháp so sánh nhưng xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.

Phương pháp thặng dư được thực hiện bằng cách lấy tổng doanh thu phát triển ước tính trừ đi tổng chi phí phát triển ước tính của thửa đất, khu đất trên cơ sở sử dụng đất có hiệu quả cao nhất (hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, số tầng cao tối đa của công trình) theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Phương pháp thặng dư được áp dụng để định giá đối với trường hợp thửa đất, khu đất để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện áp dụng phương pháp so sánh, phương pháp thu nhập nhưng ước tính được tổng doanh thu phát triển và tổng chi phí phát triển của dự án.

Phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất được thực hiện bằng cách lấy giá đất trong bảng giá đất nhân với hệ số điều chỉnh giá đất. Hệ số điều chỉnh giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ban hành thông qua việc so sánh giá đất trong bảng giá đất với giá đất phổ biến trên thị trường. Phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất được áp dụng để xác định giá đất đối với thửa đất, khu đất đã được quy định trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành và thuộc một trong các trường hợp sau: Các trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 114 và khoản 3 Điều 189 Luật Đất đai; Tính tiền thuê đất trả tiền hàng năm khi Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất; tính giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp thửa đất, khu đất đã được đầu tư hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch chi tiết xây dựng.

Xác định giá đất của thửa đất, khu đất cần định giá mà tổng giá trị tính theo giá đất trong bảng giá đất đối với diện tích phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương, dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao, dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại trong các trường hợp sau: Các trường hợp quy định tại điểm b và điểm d khoản 4 Điều 114, khoản 2 Điều 172 Luật Đất đai; tính tiền thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê khi Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất. đ) Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với các trường hợp thu hồi nhiều thửa đất liền kề nhau, có cùng mục đích sử dụng mà không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh. Các thửa đất so sánh để áp dụng phương pháp định giá đất phải đủ điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.

Nghị định 12/2024/NĐ-CP cũng bổ sung Điều 5b về thông tin để áp dụng phương pháp định giá đất. Các thông tin về giá đất, giá thuê đất, giá thuê mặt bằng để áp dụng phương pháp so sánh, phương pháp thặng dư và xây dựng hệ số điều chỉnh giá đất bao gồm: Giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quyết định trúng đấu giá, Giá đất đã thực hiện thủ tục về thuế tại cơ quan thuế hoặc đăng ký tại văn phòng đăng ký đất đai đối với các trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất; giá thuê đất, giá thuê mặt bằng; giá đất chuyển nhượng trên thị trường. Các thông tin để áp dụng phương pháp định giá đất là thông tin trong khoảng thời gian không quá 24 tháng tính từ thời điểm định giá đất trở về trước.

BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG

 

.
.
.
.